Tám ngày sau sự việc chúng ta vừa chứng kiến tức là khoảng cuối tháng Bảy, trên tường thành Saint-Malo đầy ắp những khán giả đang háo hức được chứng kiến một cảnh tượng lặp đi lặp lại mỗi ngày trên các hải cảng nhưng không bao giờ khiến họ chán mắt. Tất cả các con thuyền buồm trên cảng đều kéo cờ, tất cả các ngôi nhà quay ra cảng đều treo quốc kỳ. Phía cuối cảng nội địa, một con tàu lớn bốn trăm tấn đang tiến ra sau bốn tàu kéo, mỗi tàu có người hai tay chèo. Tất cả họ đều hát vang tạo thành hoà âm át cả tiếng đám đông:

Tàu cướp hàng của kẻ thù chạy nhanh mải miết

Mang lại vinh quang hay cõi chết

Tiến lên! Nước Pháp muôn năm!

Ngập tràn khắp Saint-Malo

Những con tàu đường trường đạp sóng xô

Tiến lên, thượng lộ bình an!

Hỡi các chàng thủy thủ, ngoài khơi hãy mởto đôi mắt

Tàu tuyệt nhất cũng là tàu lớn nhất.

Hỡi các chàng thủy thủ, ngoài khơi, hay mở to đôi mắt!

Tàu tuyệt nhất cũng là tàu lớn nhất.

Tiến lên tàu của chúng ta!

Tàu của chúng ta sẽ ra khơi

Nhanh hơn đường lao của cá bơi.

 

Trong lúc các con thuyền kéo chiếc tàu qua eo hẹp chia đảo Saint-Serran và đảo Saint-Malo, người ta có thể thấy bên dưới cột buồm mũi hình một bộ xương tuyệt vời như vừa chui từ quan tài ra.

Đó là chiếc tàu Revenant vừa được đóng bằng tiền của thuyền trưởng Surcouf dùng để thám thính đại dương, chốn kịch trường của những chiến công oai hùng của thuyền trưởng anh dũng ấy. Nó sắp xuất hiện trong Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương như một Kẻ trở về.

 

Vừa nhìn thấy nó, dân chúng đứng trên các mỏm đá, ghé qua tường thành hay tụ tập bên những ô cửa sổ đồng thanh hô vang

"Revenant muôn năm!

 Đoàn thủy thủ muôn năm!"

Những tay chèo đứng dậy và cũng hô vang:

 "Surcouf muôn năm! Nước Pháp muôn năm!"

 

Tất cả cửa sổ trên tàu cướp biển đều có vợ con, anh em và bạn bè của họ. Những người này có vẻ sốt ruột và đã chau mày vì chuyến tàu phải ra khơi đúng mười hai giờ trưa. Mười một giờ đã điểm mà không thấy một người đàn ông nào trong thủy thủ đoàn của Surcouf lên boong. Ông cữ thuyền phó Bléas đi xem người của mình làm gì ở quán nhà chị Leroux hay trên phố Traversière. Lát sau, Bléas trở lại nói nhỏ với ông rằng, giống César chuẩn bị đi Tây Ban Nha và bị chủ nợ chặn lại, đoàn thủy thủ của ông cũng bị người Do Thái cho vay tiền hiện đang chặn lại không cho họ đi chừng nào chưa trả nợ. René đứng cạnh Surcouf nhận thấy có khả năng can thiệp vào việc này nên anh xin phép đi thay ông và xem có cách nào giải quyết êm thấm giữa con nợ và chủ nợ hay không.

 

Những ai không được thấy con tàu ra khơi trong điều kiện như con tàu của Surcouf có lẽ cũng không hình dung ra quang cảnh đặc biệt và tò mò nhất có thể tưởng tượng.

 

Khi các khoản tạm ứng mới được phát cho các thủy thủ, tức thì cả những bà vợ và chủ nợ xông vào họ để giành lấy nhiều tiền nhất có thể. Nói chung, trong những hoàn cảnh như thế thì phụ nữ đáng sợ hơn các chủ nợ: những cơn tru tréo, khóc lóc, than vãn của các bà vợ hoà với lời đe nẹt của dân Do Thái như xiết họ tức thở. Tuy thế, phụ nữ bao giờ cũng giành ưu thế. Những con chim mồi đáng thương biết rằng sau lực lượng cộng đồng thậm chí sau các quan toà thì phụ nữ luôn có đủ lý lẽ để chống lại họ. Họ vừa để cho các bà vợ giật từng sợi tóc vừa hiểu rằng chi tiêu trong gia đình phải được ưu tiên. Thế nhưng, khi người phụ nữ cuối cùng cứu được đồng tiền của các ông chồng thì các quý ông này lại phải chịu cơn thịnh nộ khác. Họ đành đưa nốt những đồng bạc cuối cùng cho chủ nợ nhưng nếu các chủ nợ không chấp nhận một nửa khoản họ đòi, nếu con nợ đầu tiên tỏ ra ngoan cố, sẵn sàng nổi đoá lên nếu việc can thiệp bằng vũ lực trở nên cần thiết thì thủy thủ giận dữ với chủ nợ cương quyết sẽ bắt đầu lao vào cuộc đấu khẩu xứng với những lời khiêu khích của các anh hùng trong trường ca của Homère.

 

Thế mà đó đã là chuyện vừa xảy ra. René đứng giữa một cuộc hỗn loạn thật sự. Vừa nhận ra anh, đám thủy thủ hiểu ngay vị cứu tinh của mình đã đến, những tiếng reo la "Thư ký của chỉ huy!" đón chào anh kèm với những tràng pháo tay ròn rã. Chiếc túi anh cầm trên tay có vẻ đầy vàng phần nào làm yên lòng các chủ nợ. Anh trèo lên bàn và ra hiệu muốn nói. Tất cả lập tức im bặt. Sự im lặng mới tuyệt đối làm sao! Người ta ngỡ như sắp có sấm của Decade.

- Thưa các bạn - René cất giọng - Ngài chỉ huy không muốn ngay lần đầu ông ra quân trên thành phố quê hương mình lại xảy ra xích mích giữa các thủy thủ, dù quê ở đâu, với đồng bào của ông ấy.

Nói đến đây, René nhận ra giữa những cất đầu đang hướng về mình có đầu của Saint-Jean, tức là người thủy thủ đã đến ăn tối theo lời mờí của anh và kể mọi chuyện về Surcouf.

- Lại đây anh Saint-Jean - René nói rồi quay sang các thủy thủ và chủ nợ hỏi - Tất cả mọi người đều biết Saint-Jean?

- Chúng tôi biết anh ấy - Cả chủ nợ và các thủy thủ đáp.

- Đó là một người đứng đắn đúng không?

- Đúng! Các thủy thủ đồng thanh đáp - Đúng! Đúng! Đúng!

- Đúng! - Đám người Do Thái đáp không mấy hăng hái.

- Tôi giao nhiệm vụ cho anh ấy trả tiền cho các người. Anh ấy sẽ trả mỗi chủ nợ năm phần trăm khoản lãi dù vay ở thời điểm nào. Những ai vay một tháng, mười lăm ngày hay tám ngày đều nhận lãi từ tiền của mình, như thể cho vay từ một năm.

Đám chủ nợ xì xào.

- Nào, nhận hoặc là không - René nói - Đây là tiền (anh chỉ vào chiếc túi) còn đây là túi của tôi, một khi nó đã vào trong túi tôi thì các vị đừng mong thấy nó và những gì trong túi nữa, một, hai, ba…

- Chúng tôi đồng ý! - Đám chủ nợ ầm lên.

- Saint-Jean, hãy thanh toán nhanh lên, thuyền trưởng đang rất sốt ruột.

Saint-Jean là một người tính toán nhanh nhẹn, chỉ trong vòng mười lăm phút, tất cả đã kết thúc. Khoản tiền ban đầu đám chủ nợ đòi lên đến 52 nghìn phăng đã được thanh toán hết 20 nghìn. Bọn Do Thái cười thầm vừa thú nhận chúng không mong gì hơn tất cả các khoản nợ còn lại cũng được trả như thế.

René nhận từ tay Saint-Jean bản cam kết tập thể đã nhận 20 nghìn phăng đổi lại họ thả con nợ ra. Thế là những cánh cửa mở toang, rào chắn bị dỡ bỏ và các thủy thủ ầm ĩ, nhanh nhẹn như một vòi rồng lao về cổng Dinan, nơi hẹn xuất phát.

Tàu sẽ ra khơi đúng 12 giờ trưa. Người ta chỉ còn mười lăm phút nữa. Trán thuyền trưởng Surcouf dãn ra khi thấy đoàn thủy thủ cùng đến.

- Thật lòng - ông nói với René - Tôi đã biết rõ anh có thể đánh với Héc-quyn, bắn súng như Junot, đấu gươm với Saint-Georges, uống như tướng Bisson, nhưng tôi còn chưa biết anh cũng có tài ngoại giao giỏi như ngài Talayrand đâu đấy, anh làm thế quái nào vậy?

- Tôi đã trả tiền cho họ - René đáp gọn.

- Anh đã trả cho họ ư?

- Đúng thế!

- Anh trả bao nhiêu?

- 20 nghìn phảng, thật quá rẻ. Ban đầu họ đòi 50 nghìn.

- Hai mươi nghìn phăng! - Surcouf nhắc lại.

- Ở đây không có thói quen người mới đến trả khoản "ra mắt" à? - René cười và hỏi.

"Rõ ràng đây là cháu của Sa hoàng Pierre Đại đế muốn, như tổ tiên của mình, học nghề thủy thủ đây - Surcouf nghĩ thầm trong bụng".

Rồi ông quay sang lớn giọng nói với đám thủy thủ:

- Này, hỡi quân chó má các người - ông nói - có thể các người cho rằng nhờ ta mà các người lành lặn thoát khỏi tay bọn chủ nợ thì các người nhầm to: Một khi đã trả trước, ta có thói quen với đội quân của mình là họ đừng mong nhận thêm một xu. Chính người bạn mới René của các ngài đã trả khoản ra mắt đấy. Kể ra hai mươi nghìn phăng cũng hơi đắt, nhưng các anh còn mong gì hơn? Đó là thói hoang của anh ta. Ta hy vọng các anh biết ơn anh ấy về điều này và nếu anh ấy gặp bất cứ nguy hiểm gì cần phải làm sao cho anh ấy thoát khỏi nó, đó là việc các anh phải làm. Còn bây giờ, chúng ta lên đường thôi.

 

Surcouf đã cho làm một lối đi xuống bến khi thủy triều hạ, nhưng vì lúc đó, thủy triều lên cao nên những con sóng đã xô lên những bước chân đầu tiên. Tiếng trống gọi lên boong vang lên giục thủy thủ xuống xà lan, mỗi chiếc chở 12 người ra tàu. Một tiếng sau, 140 thủy thủ đã lên đến nơi và René là một trong số đầu tiên, sau khi đã nhận những lời cảm ơn của bạn bè. Tiếp sau là tham mưu lên boong với tiếng trống và tiếng sáo chào đón.

Trong giây lát, ai vào vị trí người đó: thuyền trương trước bệ lái các thủy thủ điều phối trên bực buồm, sĩ quan gần bảng báo hiệu. Thủy thủ đoàn bao gồm tất thảy 145 người, Surcouf còn định mang 180 người trong cảng đầu tiên nơi ông thả neo.

 

Bras-d'Acier là người duy nhất vắng mặt. Ông ta đã nói với Surcouf rằng một khi René ở trên tàu thì ông không cần thêm thầy dạy kiếm nào nữa. Những chiếc thuyền được buộc lên tàu theo hình chiếc nỏ và một phát đạn đại bác vang lên, lá cờ ba màu cũng giương lên trên nóc cột buồm chính báo liệu đã đến giờ xuất phát. Vì gió không vào đến nơi nên các tay chèo phải đưa con tàu ra xa hơn. Các thủy thủ tiếp tục chèo trong khi Surcouf hoa tiêu thuộc nhất thông thổ đó đang chi đường cho người lái. Các thủy thủ lại cất giọng hát vang.

Đến Roche-Aux-Anglais, con tàu dừng lại, người ta nghe thấy giọng của Surcouf nói với thủy thủ đoàn của mình nhưng đồng thời cũng cho tất cả khán giả đến từ biệt nghe thấy:

- Trời yên, biển lặng, gió thuận! Chuẩn bị giương buồm ra khơi! Hãy căng buồm, hãy kéo buồm lên!

 

Cánh buồm xổ xuống dọc theo ba cột rồi phồng lên rất điệu đà con tàu đi sâu vào trong lạch Petite Conchéc chỉ hai giờ sau, tàu Revenant chỉ còn là cái chấm trắng nhỏ xa dần cho đến khi không còn nhìn thấy gì nữa.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Nhấn vào giữa màn hình để hiển thị Tùy chọn đọc.
Theo dõi Đọc Sách Hay trên Facebook, mỗi ngày chúng tôi cập nhật những cuốn sách, truyện hay nhất!

Có thể bạn thích