Sapiens: Lược Sử Loài Người
PHÁT HIỆN RA SỰ NGU DỐT

PHÁT HIỆN RA SỰ NGU DỐT

Giả sử một nông dân Tây Ban Nha chìm trong giấc ngủ dài vào năm 1000, và 500 năm sau đó choàng dậy bởi tiếng huyên náo từ đám thủy thủ của ngài Columbus đang leo lên các con tàu Nina, Pinta và Santa Maria, thì thế giới đối với anh ta có vẻ vẫn quen thuộc như ngày nào. Dẫu có nhiều thay đổi về kĩ thuật, cách cư xử, và những ranh giới chính trị, nhưng anh nông dân ngủ quên Rip Van Winkle thời trung cổ vẫn cảm thấy như ở nhà. Nhưng nếu một thủy thủ của Columbus rơi vào giấc ngủ tương tự và thức dậy với tiếng nhạc chuông iPhone thế kỷ 21, anh ta có thể thấy mình đang ở trong một thế giới kỳ lạ không thể hiểu nổi. “Phải thiên đường đây không?” Anh ta chắc hẳn sẽ tự hỏi mình. “Hay lẽ nào – địa ngục?”

500 năm qua đã chứng kiến một sự tăng trưởng phi thường và chưa từng có tiền lệ trong sức mạnh con người. Năm 1500 có khoảng 500 triệu Homo sapiens trên toàn thế giới. Ngày nay, con số này là 7 tỉ. Tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ được sản xuất bởi loài người trong năm 1500 ước tính vào khoảng 250 tỉ đô-la, với tỉ giá hiện tại. Ngày nay, giá trị một năm sản xuất của con người là gần 60 nghìn tỉ đô-la. Trong năm 1500, loài người tiêu thụ khoảng 13 nghìn tỉ calo năng lượng mỗi ngày. Ngày nay, chúng ta tiêu thụ 1.500 nghìn tỉ calo cho một ngày. (Hãy nhìn lại những con số này – dân số đã tăng gấp 14 lần, sản xuất gấp 240 lần, và tiêu thụ năng lượng gấp 115 lần.)

Giả sử một chiến hạm hiện đại được mang trở lại thời Columbus. Chỉ một vài giây, nó có thể biến những con thuyền Nina, Pinta và Santa Maria thành những mảnh ván bập bềnh trên biển, và sau đó đánh chìm lực lượng hải quân của tất cả những cường quốc thế giới vào thời đó, mà không hề sây sát. Chỉ cần năm con tàu chuyên chở hiện đại là có thể chở được hết số hàng hoá của toàn bộ đội tàu buôn của thế giới thời đó. Một máy vi tính hiện đại có thể dễ dàng lưu trữ từng chữ, từng số trong tất cả sách và kinh chép tay của mỗi thư viện thời trung cổ mà vẫn còn dư dung lượng. Bất kỳ một ngân hàng lớn nào ngày nay cũng giữ nhiều tiền hơn so với số tiền của mọi vương quốc tiền hiện đại trên thế giới cộng lại.

Năm 1500, rất ít thành phố có hơn 100.000 dân. Hầu hết các tòa nhà được xây bằng bùn, gỗ và rơm; một tòa nhà ba tầng đã được coi là một tòa nhà chọc trời. Phố xá là những con đường mòn bẩn thỉu, bụi bặm vào mùa hè và lầy lội vào mùa đông, ngược xuôi dòng người đi bộ, ngựa, dê, gà và một vài chiếc xe kéo. Âm thanh đô thị quen thuộc nhất là tiếng người và động vật, cùng tiếng búa và tiếng cưa. Khi Mặt trời lặn, cả thành phố chìm trong bóng tối, thi thoảng vài ánh nến hoặc ánh đuốc lập lòe trong bóng đêm. Nếu một cư dân thành phố ấy được thấy Tokyo, New York hay Mumbai ngày nay, anh ta sẽ nghĩ gì?

Từ thế kỷ 16 trở về trước, chưa có người nào từng đi vòng quanh Trái đất. Điều này đã thay đổi vào năm 1522, khi đoàn thuyền thám hiểm của Magellan trở về Tây Ban Nha sau một hành trình dài 72.000 km, kéo dài ba năm và tước đi mạng sống của gần như toàn bộ thủy thủ đoàn, gồm cả chính Magellan. Vào năm 1873, Jules Verne đã tưởng tượng chuyện Phileas Fogg, một người Anh giàu có ưa mạo hiểm, có thể đi vòng quanh thế giới chỉ trong 80 ngày. Ngày nay bất cứ ai có mức thu nhập tầm trung cũng có thể đi vòng quanh thế giới một cách an toàn và dễ dàng chỉ trong vòng 48 giờ.

Năm 1500, con người chỉ chôn chân trên bề mặt Trái đất. Họ có thể xây những tòa tháp cao và leo núi, nhưng bầu trời chỉ dành cho chim chóc, thiên sứ và những vị thần. Ngày 20 tháng Bảy năm 1969, con người đặt chân lên Mặt trăng. Đây không chỉ là một thành tựu mang tính lịch sử, mà còn là một dấu ấn của tiến hoá và mang tầm vóc vũ trụ. Trong suốt 4 tỉ năm tiến hoá trước đây, chưa có sinh vật nào ra được khỏi bầu khí quyền của Trái đất, và chắc chắn cũng chưa có sinh vật nào để lại dấu chân hay dấu xúc tu trên Mặt trăng.

Trong phần lớn lịch sử của mình, con người không biết gì về 99,99% những sinh vật trên hành tinh này – cụ thể là những vi sinh vật. Lý do không phải vì chúng ta không bận tâm đến chúng. Mỗi người trong chúng ta đều mang trong mình hàng tỉ sinh vật đơn bào, và chúng không phải là những kẻ ân không ngồi rồi. Chúng là những người bạn tốt nhất của con người nhưng cũng là kẻ thù nguy hiểm nhất. Một số tiêu hoá thức ăn và làm sạch ruột của chúng ta, trong khi một số khác gây đau ốm và bệnh dịch. Thế nhưng, chỉ đến năm 1674, con người mới lần đầu tiên được diện kiến tận mắt một vi sinh vật, khi Anton van Leeuwenhoek liếc qua chiếc kính hiển vi tự chế của ông và giật mình khi thấy cả một thế giới của những sinh vật nhỏ bé lao xao trong một giọt nước. Trong 300 năm sau đó, con người đã làm quen với một số lượng lớn các loài vi sinh vật. Chúng ta đánh bật thành công hầu hết những bệnh truyền nhiễm nguy hiểm nhất mà chúng gây ra, và chinh phục được vi sinh vật để phục vụ cho y tế và công nghệ. Ngày nay chúng ta điều khiển vi khuẩn để sản xuất thuốc, chế tạo nhiên liệu sinh học và tiêu diệt ký sinh trùng.

Nhưng thời khắc đáng chú ý và quyết định nhất trong 300 năm qua đã đến vào lúc 03:29:43 ngày 16 tháng Bảy năm 1945. Vào chính giây phút đó, các nhà khoa học Mỹ đã cho nổ quả bom nguyên tử đầu tiên tại Alamogordo, bang New Mexico. Từ thời điểm đó trở đi, loài người đã có khả năng không chỉ thay đổi tiến trình lịch sử, mà còn có thể kết thúc nó.

Tiến trình lịch sử dẫn đến vụ thử nghiệm Alamogordo và sự kiện con người đặt chân lên Mặt trăng được biết đến với tư cách là Cách mạng Khoa học. Trong cuộc cách mạng này, loài người đã giành được vô số quyền năng mới thông qua việc tập trung đầu tư nguồn lực vào nghiên cứu khoa học. Đây là một cuộc cách mạng, bởi vì đến khoảng năm 1500, con người trên khắp thế giới vẫn còn hoài nghi về khả năng có được những sức mạnh mới trong lĩnh vực y tế, quân sự và kinh tế của mình. Trong khi chính quyền và các nhà bảo trợ giàu có phân bổ nguồn tài chính cho giáo dục và học thuật với mục đích bảo toàn những năng lực hiện có hơn là phát triển những khả năng mới, thì một nhà cai trị điển hình thời tiền hiện đại sẽ cấp tiền cho linh mục, triết gia và thi sĩ với hy vọng họ sẽ hợp pháp hoá sự cai trị của ông ta và duy trì trật tự xã hội. Ông ta không mong đợi họ sẽ khám phá ra những dược phẩm mới, phát minh ra vũ khí mới hay kích thích tăng trưởng kinh tế.

 

Vòng lặp của Cách mạng Khoa học. Khoa học cần nhiều hơn các nghiên cứu để tạo ra sự tiến bộ. Nó phụ thuộc vào sự củng cố lẫn nhau giữa khoa học, chính trị và kinh tế. Các thể chế chính trị và kinh tế cung cấp nguồn lực mà nếu không có chúng thì nghiên cứu khoa học gần như là điều không thể. Đổi lại, nghiên cứu khoa học cung cấp những sức mạnh mới, mà cùng với những thứ khác, sẽ được sử dụng nhằm giành những nguồn lực mới; trong số những nguồn lực mới này, một số lại được tái đầu tư cho nghiên cứu.

Trong năm thế kỷ vừa qua, con người ngày càng tin tưởng rằng có thể củng cố năng lực của mình bằng việc đầu tư vào nghiên cứu khoa học. Đây không phải là một niềm tin mù quáng – nó đã nhiều lần được chứng minh bằng thực nghiệm. Càng tìm được nhiều bằng chứng khoa học, người giàu và các chính phủ càng sẵn sàng đầu tư nhiều nguồn lực cho khoa học. Hẳn chúng ta đã không bao giờ có thể đi bộ trên Mặt trăng, điều khiển vi sinh vật và phân chia nguyên tử nếu không có những đầu tư như vậy. Chẳng hạn, chính phủ Mỹ trong nhiều thập kỷ gần đây đã chu cấp hàng tỉ đô-la cho lĩnh vực nghiên cứu vật lý hạt nhân. Kiến thức thu được từ những nghiên cứu biến việc xây dựng các nhà máy điện hạt nhân trở thành hiện thực, cung cấp điện giá rẻ cho những ngành công nghiệp ở Mỹ; các ngành này nộp thuế cho chính phủ và chính phủ sử dụng một phần thuế này để tài trợ cho những nghiên cứu xa hơn về vật lý hạt nhân.

Tại sao con người hiện đại ngày càng bộc lộ niềm tin vào khả năng đạt đến những quyền lực mới qua nghiên cứu của mình? Cái gì đúc kết nên mối ràng buộc giữa khoa học, chính trị và kinh tế? Trong chương này, ta sẽ xem xét bản chất độc đáo của khoa học hiện đại để đưa ra một phần câu trả lời. Hai chương tiếp theo xem xét sự thành hình liên minh giữa khoa học, các đế quốc châu Âu và kinh tế học của chủ nghĩa tư bản.

Người ngu muội

Con người đã tìm cách khám phá về vũ trụ ít nhất là từ Cách mạng Nhận thức. Tổ tiên chúng ta đã bỏ ra rất nhiều thời gian và công sức hòng khám phá những quy luật chi phối thế giới tự nhiên. Nhưng khoa học hiện đại và tất cả những truyền thống tri thức trước đây có ba điểm khác nhau cản bản:

a. Sẵn sàng thừa nhận mình ngu dốt. Khoa học hiện đại dựa trên huấn thị tiếng Latin ignoramus có nghĩa là “chúng tôi không biết”. Nó giả định rằng chúng ta không biết gì về mọi thứ. Thậm chí nghiêm trọng hơn, nó mặc nhận là những thứ mà chúng ta nghĩ rằng mình biết có thể được chứng minh là sai khi chúng ta có thể thu lượm được nhiều kiến thức hơn. Không có khái niệm, tư tưởng, hay lý thuyết nào là bất khả xâm phạm và vượt ra ngoài thách thức.

b. Trung tâm của sự quan sát và toán học. Khi đã thừa nhận sự ngu dốt, khoa học hiện đại đặt mục tiêu thu lượm kiến thức mới. Nó làm vậy bằng cách thu thập các quan sát, rồi sau đó dùng những công cụ toán học để kết nối các quan sát này thành những lý thuyết toàn diện.

c. Sự thu nhận những sức manh mới. Khoa học hiện đại không bằng lòng với việc tạo ra lý thuyết. Nó muốn dùng lý thuyết này để thu nhận những sức mạnh mới, và đặc biệt để phát triển những công nghệ mới.

Cách mạng Khoa học không phải là một cuộc cách mạng về tri thức. Trên hết, nó là một cuộc cách mạng về sự ngu dốt. Khám phá lớn lao đặt nền móng cho Cách mạng Khoa học chính là việc loài người chưa có câu trả lời cho những câu hỏi quan trọng nhất của họ.

Những truyền thống tri thức tiền hiện đại, như Hồi giáo, Ki-tô giáo, Phật giáo và Khổng giáo đã khẳng định rằng, mọi thứ quan trọng mà loài người cần biết về thế giới đều đã được biết rồi. Những vị thần vĩ đại, hay Đấng tối cao toàn năng, hay những bậc hiền triết trước đây đã sở hữu mọi sự uyên thâm mà họ tiết lộ cho chúng ta qua các bộ kinh và những truyền thống truyền miệng. Dân gian thu nạp kiến thức bằng cách mày mò từ những văn bản và những truyền thống cổ đại, học hành thấu đáo từ chúng. Thật không thể tin rằng Kinh Thánh, kinh Koran, hay kinh Vệ Đà đã bỏ qua một bí mật quan trọng của vũ trụ – một bí mật mà có thể vẫn chưa được những sinh vật bằng xương bằng thịt khám phá.

Những truyền thống tri thức cổ đại chỉ thừa nhận hai loại ngu dốt. Thứ nhất, một cá nhân có thể không biết gì về một thứ gì đó quan trọng. Để thu lượm kiến thức cần thiết, anh ta chỉ cần đi hỏi một bậc minh triết hơn. Không cần phải khám phá những điều mà chưa ai từng biết. Ví dụ, chẳng hạn có một nông dân vùng quê Yorkshire nào đó ở thế kỷ 13 muốn biết loài người xuất thân từ đâu, anh ta sẽ mặc định truyền thống Ki-tô giáo nắm giữ câu trả lời chính xác, và tất cả những gì anh ta làm là chỉ cần đến hỏi linh mục địa phương.

Thứ hai, một truyền thống toàn vẹn có thể rất mù mờ về những thứ không quan trọng. Theo định nghĩa, bất cứ những gì mà các vua chúa vĩ đại hay bậc minh triết trong quá khứ, nếu đã không buồn nói cho chúng ta biết, thì đều là những thứ không quan trọng. Ví dụ, nếu người nông dân Yorkshire của chúng ta muốn biết loài nhện dệt mạng của chúng như thế nào, thì đi hỏi linh mục cũng chẳng ích gì, vì không có đáp án nào cho câu hỏi này trong bất kỳ cuốn Kinh Thánh nào. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là Ki-tô giáo có khiếm khuyết, mà là việc tìm hiểu xem loài nhện dệt mạng thế nào là điều không quan trọng. Xét cho cùng, Chúa biết rất rõ cách loài nhện làm việc đó thế nào. Nếu việc này là thông tin có ý nghĩa sống còn, không thể thiếu được cho sự thịnh vượng và cứu rỗi của nhân loại, thì hẳn Chúa đã đưa ra lời giải thích thấu đáo trong Kinh Thánh rồi.

Ki-tô giáo không cấm mọi người nghiên cứu về nhện. Nhưng những học giả về loài nhện – nếu có người nào như vậy vào thời trung cổ ở châu Âu – đã phải chấp nhận vai trò thứ yếu của họ trong xã hội và rằng những phát hiện của họ không dính dáng gì đến những chân lý vĩnh cửu của Ki-tô giáo. Bất kể điều gì một học giả có thể khám phá về loài nhện hay loài bướm, hay loài chim sẻ Galapagos, thì thứ kiến thức đó đều gần như vô vị, không có nghĩa lý gì đối với những chân lý cơ bản của xã hội, chính trị và kinh tế.

Trên thực tế, mọi thứ không bao giờ hoàn toàn đơn giản như vậy. Ở mọi thời kỳ, ngay cả thời kỳ sùng đạo và bảo thủ nhất, đều có những người cho rằng có những thứ quan trọng mà truyền thống toàn vẹn của họ mù tịt về chúng. Tuy nhiên, những người như vậy thường bị gạt ra ngoài xã hội, hoặc bị ngược đãi – nếu không thì họ đã hình thành một truyền thống mới và bắt đầu tranh luận rằng họ đã biết tất cả những gì cần phải biết. Ví dụ, nhà tiên tri Muhammad bắt đầu sự nghiệp tôn giáo của mình bằng cách lên án đồng bào Ả-rập của ông đã sống mà không biết đến chân lý thiêng liêng. Thế nhưng chính Muhammad lập tức lý luận rằng ông đã biết chân lý toàn vẹn rồi, và tín đồ bắt đầu gọi ông là “Nhà tiên tri Cuối cùng”. Từ đó về sau, không cần sự thiên khải nào nữa, ngoài những gì Muhammad đã mang đến.

Khoa học hiện đại là một truyền thống tri thức độc đáo, bởi nó công khai thừa nhận sự ngu dốt tập thể liên quan đến những câu hỏi quan trọng nhất. Darwin không bao giờ nhận mình là “Nhà sinh vật học cuối cùng” hay mình đã giải được câu đố về sự sống một lần và mãi mãi. Sau nhiều thế kỷ nghiên cứu khoa học trên phạm vi rộng, các nhà sinh vật học thừa nhận rằng họ vẫn chưa có bất kỳ kiến giải giá trị nào về việc bộ não đã tạo ra ý thức như thế nào. Các nhà vật lý thừa nhận rằng họ không biết điều gì đã gây ra vụ nổ BigBang, hay làm thế nào để dung hòa giữa cơ học lượng tử với thuyết tương đối rộng.

Trong các trường hợp khác, những lý thuyết khoa học cạnh tranh gây tranh luận dữ dội dựa trên những bằng chứng mới liên tục xuất hiện. Một ví dụ điển hình là các tranh luận về việc điều hành nền kinh tế thế nào cho tốt nhất. Dù mỗi nhà kinh tế học đều có thể khẳng định phương pháp của họ là tốt nhất, song lý thuyết chính thống thay đổi với mỗi cuộc khủng hoảng tài chính và bong bóng thị trường chứng khoán, và người ta thường chấp nhận rằng những nhận định cuối cùng về kinh tế vẫn chưa được nói ra.

Trong các trường hợp khác, những lý thuyết cụ thể được củng cố kiên định bởi những bằng chứng có sẵn, tới mức mọi lựa chọn thay thế khác từ lâu đã bị bỏ rơi bên vệ đường. Những lý thuyết như vậy được chấp nhận là chân lý – nhưng tất cả mọi người đều đồng ý rằng, nếu có bằng chứng mới xuất hiện phản bác lại lý thuyết, nó sẽ phải được sửa đổi hoặc loại bỏ. Các ví dụ hay về những trường hợp này là lý thuyết kiến tạo mảng và thuyết tiến hoá.

Tinh thần sẵn sàng thừa nhận sự ngu dốt khiến khoa học hiện đại trở nên năng động hơn, linh hoạt hơn, và ham tìm tòi hơn bất kĩ truyền thống nào trước đó của tri thức. Điều này giúp mở toang năng lực hiểu biết về cách thức hoạt động của thế giới, cũng như khả năng phát minh ra những công nghệ mới của chúng ta. Nhưng nó đặt ra cho chúng ta một vấn đề nghiêm trọng mà hầu hết ông bà tổ tiên chúng ta không phải đối mặt. Giả định hiện tại của chúng ta rằng chúng ta không biết hết mọi thứ, và thậm chí những kiến thức mà ta đang sở hữu cũng chỉ là nhất thời phát huy ảnh hưởng đến cả những huyền thoại chung tạo điều kiện cho hàng triệu người lạ mặt có thể hợp tác hiệu quả với nhau. Nếu có bằng chứng cho thấy nhiều trong số những huyền thoại đó là đáng ngờ, làm thế nào chúng ta có thể giữ vững xã hội? Làm thế nào các cộng đồng, quốc gia và hệ thống quốc tế của chúng ta có thể vận hành?

Tất cả những nỗ lực hiện đại để ổn định trật tự chính trị xã hội đã không có lựa chọn nào khác ngoài dựa vào một trong hai phương pháp phi khoa học:

a. Chấp nhận một lý thuyết khoa học, và đi ngược lại với những tập quán khoa học chung, tuyên bố rằng đó là một chân lý cuối cùng và tuyệt đối. Áp dụng phương pháp này có Đức quốc xã (tuyên bố những chính sách kỳ thị chủng tộc của họ là hệ quả của các thực tế sinh học).

b. Gác khoa học ra ngoài và sống theo một chân lý tuyệt đổi phi khoa học. Đây là chiến lược của chủ nghĩa nhân văn tự do được xây dựng trên một niềm tin giáo điều vào giá trị độc đáo và các quyền con người – một học thuyết mà, thật bẽ bàng, có ít điểm chung với những nghiên cứu khoa học về Homo sapiens.

Nhưng chúng ta không nên ngạc nhiên vì điều này. Ngay cả bản thân khoa học cũng phải dựa vào những niềm tin tôn giáo và hệ tư tưởng để biện minh và tài trợ cho nghiên cứu của nó.

Văn hoá hiện đại, dù sao đi nữa, đã sẵn sàng đón nhận sự ngu dốt ở chừng mức lớn hơn nhiều so với bất kỳ văn hoá nào trước đó. Một trong những thứ khiến trật tự xã hội hiện đại có thể duy trì được, đó là sự truyền bá của niềm tin gần như tôn giáo trong kĩ thuật và các phương pháp nghiên cứu khoa học mà ở mức độ nào đó đã thế chỗ cho niềm tin vào các chân lý tuyệt đối.

Giáo điều khoa học

Khoa học hiện đại không có giáo điều. Tuy nhiên, có một nguyên tắc chung cho các phương pháp nghiên cứu: đều dựa vào việc thu thập các quan sát thực nghiệm – những gì chúng ta có thể quan sát được với ít nhất một trong những giác quan của mình – và hệ thống chúng lại với sự giúp đỡ của những công cụ toán học.

Xuyên suốt lịch sử, con người đã thu thập những quan sát thực nghiệm, nhưng tầm quan trọng của những quan sát này thường bị giới hạn. Tại sao lại đi lãng phí nguồn lực quý giá để có được những quan sát mới, trong khi chúng ta đã có tất cả các đáp án mà chúng ta cần có? Nhưng khi con người hiện đại đi đến chỗ thừa nhận mình không biết câu trả lời cho một số câu hỏi rất quan trọng, họ thấy mình buộc phải đi tìm kiếm kiến thức hoàn toàn mới. Kết quả là, phương pháp nghiên cứu hiện đại đang thống lĩnh hiện nay mặc nhiên thừa nhận sự thiếu sót của những kiến thức cũ. Thay vì nghiên cứu những truyền thống cũ, ngày nay trọng tâm được đặt vào các quan sát và thử nghiệm mới. Khi quan sát hiện tại xung đột với truyền thống quá khứ, chúng ta ưu tiên cho việc quan sát. Dĩ nhiên, các nhà vật lý phân tích quang phổ của những thiên hà xa xôi, các nhà khảo cổ phân tích những phát hiện từ một thành phố Thời đại Đồ đồng, và các nhà chính trị học nghiên cứu sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản đã không gạt bỏ truyền thống. Họ bắt đầu bằng việc nghiên cứu những gì các nhà thông thái cổ đại đã nói và viết ra. Nhưng ngay từ năm thứ nhất đại học, các nhà vật lý, khảo cổ và chính trị học giàu khát vọng này đều được dạy rằng nhiệm vụ của họ là phải đi xa hơn tẩm hiểu biết của Einstein, Heinrich Schliemann và Max Weber.

Tuy nhiên, chỉ những quan sát đơn thuần thì không phải là kiến thức. Để hiểu được vũ trụ, chúng ta cần phải kết nối những quan sát thành hệ thống lý thuyết toàn diện. Truyền thống trước đây thường xây dựng lý thuyết dưới dạng những câu chuyện. Khoa học hiện đại dùng toán học.

Có rất ít phương trình, biểu đồ và các tính toán trong Kinh Thánh, kinh Koran, kinh Vệ Đà hay các tác phẩm Nho giáo kinh điển. Khi kinh kệ và các huyền thoại truyền thống đặt ra những luật lệ chung, chúng được trình bày dưới dạng kể chuyện chứ không phải dưới dạng toán học. Thế nên, một nguyên lý cơ bản của Mani giáo khẳng định rằng thế giới là một cuộc chiến giữa thiện và ác. Thế lực ác tạo ra vật chất, trong khi thế lực thiện tạo ra tinh thần. Con người bị kẹt giữa hai thế lực này và cần chọn thiện hơn là ác. Tuy nhiên, nhà tiên tri Mani giáo đã không tìm cách đưa ra một công thức toán học, có thể áp dụng để tiên đoán những lựa chọn của con người bằng cách định lượng sức mạnh tương ứng của hai thế lực này. Ông không bao giờ tính toán rằng “lực tác động lên con người tương đương với gia tốc tinh thần của người ấy chia cho trọng lượng cơ thể của người ấy”.

Đây đúng là những gì mà các nhà khoa học nỗ lực chinh phục. Năm 1687, Isaac Newton xuất bản Những nguyên tắc toán học của triết học tự nhiên, có thể xem là cuốn sách quan trọng nhất trong lịch sử hiện đại. Newton đã trình bày một lý thuyết tổng quát về chuyển động và thay đổi. Cái vĩ đại của học thuyết Newton là khả năng giải thích và tiên đoán những chuyển động của tất cả các vật thể trong vũ trụ, từ quả táo rơi, đến ngôi sao băng, dựa vào ba định luật toán học rất đơn giản:

l. ∑ F = 0

2. ∑ F = ma

3. F1,2 = -F2,1

Từ đó về sau, bất cứ ai nếu muốn tìm hiểu và tiên đoán về sự chuyển động của một viên đạn đại bác hoặc một hành tinh, thì đơn giản chỉ cần đo trọng lượng, hướng chuyển động, gia tốc của đối tượng và những lực tác động lên nó. Bằng cách đưa những con số này vào các phương trình Newton, vị trí tương lai của đối tượng có thể tiên đoán được. Nó hoạt động như trò ảo thuật vậy. Chỉ đến khoảng cuối thế kỷ 19, các nhà khoa học mới gặp một vài quan sát không phù hợp hoàn toàn với các định luật của Newton, và một vài quan sát ấy dẫn đến cuộc cách mạng tiếp theo trong vật lý – thuyết tương đối và cơ học lượng tử.

Newton đã cho thấy cuốn sách về tự nhiên được viết bằng ngôn ngữ của toán học. Một số chương (ví dụ) được cô đọng thành những phương trình gọn gàng; nhưng các học giả từng cố gắng giản lược sinh học, kinh tế học và tâm lý học thành các phương trình Newton cô đọng đã phát hiện ra rằng mấy lĩnh vực này khá phức tạp, khiến cho một tham vọng như vậy trở nên vô ích. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là họ từ bỏ toán học. Một nhánh toán học mới đã phát triển trong vòng 200 năm qua để giải quyết những khía cạnh phức tạp hơn trong thực tế: toán thống kê.

Năm 1744, hai mục sư của giáo hội Trưởng lão Scotland, Alexander Webster và Robert Wallace quyết định thành lập một quỹ bảo hiểm nhân thọ để trả tiền trợ cấp cho các quả phụ và trẻ mồ côi của các cố mục sư. Họ để nghị mỗi mục sư trong giáo hội trích một phần nhỏ thu nhập của mình để góp vào quỹ, quỹ sẽ đem đầu tư. Nếu một mục sư chết, vợ của ông ta sẽ nhận được cổ tức trên lợi nhuận của quỹ. Như vậy sẽ tạo điều kiện cho vợ của mục sư sông thoải mái cho phần đời còn lại. Tuy nhiên, để xác định các mục sư phải đóng bao nhiêu để quỹ có đủ tiền thực hiện các nghĩa vụ này của nó, Webster và Wallace cần phải có khả năng dự đoán sẽ có bao nhiêu mục sư chết mỗi năm, họ sẽ để lại bao nhiêu quả phụ và trẻ mồ côi, và các quả phụ sẽ sống lâu hơn những ông chồng quá cố của họ bao nhiêu năm nữa.

Hãy lưu ý những gì hai vị mục sư này đã không làm. Họ đã không cầu nguyện Thiên Chúa mặc khải cho họ câu trả lời. Họ đã không tìm câu trả lời trong Kinh Thánh thiêng liêng, hay trong những tác phẩm của các nhà thần học cổ đại. Họ đã không sa vào một cuộc tranh luận triết học trừu tượng. Người Scotland như họ rất thực tế. Vì vậy, họ đã liên lạc với Colin Maclaurin, một giáo sư toán học ở Đại học Edinburgh. Cả ba người sau đó thu thập dữ liệu về độ tuổi tử vong của người Scotland, và dùng những dữ liệu này để tính toán xem có bao nhiêu mục sư có thể sẽ tử vong trong một năm bất kỳ.

Công trình của họ dựa trên một số đột phá ở thời điểm đó trong lĩnh vực xác suất và thống kê. Một trong những đột phá này là Luật Số lớn của Jacob Bernoulli. Bernoulli đã hệ thống hoá thành một nguyên lý cho rằng, mặc dù khó có thể tiên đoán chắc chắn một sự kiện đơn lẻ, chẳng hạn như cái chết của một người nào đó, nhưng có thể tiên đoán được với độ chính xác cao kết quả trung bình của nhiều sự việc tương tự. Nghĩa là, Maclaurin không thể dùng toán học để tiên đoán liệu Webster và Wallace có chết vào năm tới hay không, nhưng nếu có đủ dữ liệu, ông có thể nói cho Webster và Wallace biết có bao nhiêu mục sư giáo hội Trưởng lão ở Scotland cầm chắc là chết vào năm tới. Thật may mắn, họ đã có những dữ liệu được thu thập sẵn để sử dụng. Những bảng thống kê được Edmond Halley công bố 50 năm trước tỏ ra đặc biệt hữu ích. Halley đã phân tích hồ sơ của 1.238 ca sinh và 1.174 ca tử mà ông có được từ thành phố Breslau, Đức. Các bảng này của Halley có thể cho thấy rằng, lấy ví dụ, một người 20 tuổi có xác suất tử vong là 1/100 trong một năm nhất định, nhưng với một người 50 tuổi, xác suất này là 1/39.

Sau khi xử lý những con số này, Webster và Wallace đã kết luận rằng, tại bất kỳ thời điểm nào, sẽ có trung bình 930 mục sư thuộc giáo hội Trưởng lão ở Scotland, và trung bình 27 mục sư qua đời mỗi năm, 18 người trong sổ đó để lại các bà quả phụ. Năm trong số các mục sư không để lại quả phụ sẽ bỏ lại những đứa trẻ mồ côi, và hai trong số mục sư mất để lại quả phụ cũng sẽ bỏ lại những đứa con của cuộc hôn nhân đầu khi đó chưa đến 16 tuổi. Họ tính toán thêm quãng thời gian đến khi những quả phụ này chết hoặc tái giá là bao lâu (trong cả hai tình huống đều chấm dứt việc trả tiền trợ cấp cho họ). Dựa vào những con số này, Webster và Wallace có thể xác định được số tiền các mục sư gia nhập quỹ sẽ phải đóng góp là bao nhiêu để chu cấp cho những người thân yêu của họ. Bằng việc đóng góp 2 bảng 12 shilling 2 xu mỗi năm, một mục sư có thể bảo đảm rằng người vợ góa của ông ta sẽ nhận được ít nhất là 10 bảng mỗi năm – một số tiền lớn vào thời điểm đó. Nếu ông ta nghĩ rằng như thế là không đủ, ông ta có thể đóng nhiều hơn, lên đến 6 bảng 11 shilling 3 xu mỗi năm – để bảo đảm người vợ góa của mình sẽ nhận được món tiền hậu hĩnh hơn nhiều, 23 bảng mỗi năm.

Theo tính toán của họ, đến năm 1763, quỹ bảo hiểm cho vợ góa con côi của những mục sư thuộc giáo hội Scotland sẽ có số vốn tổng cộng là 58.348 bảng. Tính toán của họ đã chứng tỏ sự chính xác đến tuyệt vời. Tới năm đó, vốn của quỹ đứng ở mức 58.347 bảng – chỉ thấp hơn 1 bảng so với dự đoán! Con số này thậm chí còn chính xác hơn so với lời tiên tri của Habakkuk, Jeremiah hay Thánh John. Ngày nay, Quỹ Webster và Wallace, được gọi chân phương là Scottish Widows, là một trong những công ty trợ cấp dưỡng lão và bảo hiểm lớn nhất thế giới. Với tài sản trị giá 100 tỉ bảng Anh, công ty không chỉ bảo hiểm cho các góa phụ Scotland, mà còn cho bất cứ ai sẵn sàng mua hợp đồng bảo hiểm của họ.

Các tính toán xác suất, như hai mục sư Scotland sử dụng, đã trở thành nền tảng của không chỉ ngành kế toán bảo hiểm, vốn là trọng tâm của ngành trợ cấp và bảo hiểm, mà của cả ngành khoa học về nhân khẩu học (do một mục sư Anh giáo, Robert Malthus, thành lập). Nhân khẩu học, đến lượt nó, là nền tảng mà dựa vào đó Charles Darwin (suýt trở thành một mục sư Anh giáo) xây dựng thuyết tiến hoá của ông. Trong khi chưa có các phương trình dự đoán loại sinh vật nào sẽ tiến hoá dưới một tập hợp các điều kiện cụ thể, các nhà di truyền học dùng toán xác suất để tính khả năng một đột biến nào đó sẽ lan rộng trong một quần thể nhất định. Các mô hình xác suất tương tự đã trở thành trọng tâm đối với kinh tế học, xã hội học, tâm lý học, chính trị học, những ngành khoa học tự nhiên và xã hội khác. Ngay cả vật lý học cuối cùng cũng bổ sung vào các phương trình cổ điển của Newton những đám mây xác suất của cơ học lượng tử.

Chúng ta chỉ cần nhìn vào lịch sử giáo dục thì sẽ nhận ra quá trình này đã đưa chúng ta đi xa đến đâu. Trong suốt chiều dài lịch sử, toán học là một lĩnh vực bí truyền mà ngay cả những người có học thức cũng ít khi nghiên cứu một cách nghiêm túc. Tại châu Âu thời trung cổ, logic học, ngữ pháp và tu từ học đã hình thành nền cốt lõi của giáo dục, trong khi việc dạy toán hiếm khi vượt quá hai môn số học và hình học đơn giản. Không ai nghiên cứu thống kê. Ngai vàng không bị tranh giành của tất cả các ngành khoa học là thần học.

Ngày nay, rất ít sinh viên theo học tu từ học; logic học thì bị bó hẹp trong các khoa triết học, và thần học chỉ được dạy tại các trường dòng. Nhưng ngày càng nhiều sinh viên được khích lệ – hay ép buộc – học toán. Có một xu thế tự nhiên không thể cưỡng lại được đối với khoa học chính xác – định nghĩa là “chính xác” bởi chúng sử dụng các công cụ toán học. Ngay cả những lĩnh vực nghiên cứu từng là một phần truyền thống của khoa học nhân văn, chẳng hạn như nghiên cứu về ngôn ngữ của con người (ngôn ngữ học) và tâm lý con người (tâm lý học), cũng ngày càng dựa vào toán học và tìm cách thể hiện mình là ngành khoa học chính xác. Các khoá học về thống kê này là một phần của những môn đại cương, không chỉ trong vật lý học và sinh học, mà cả tâm lý học, xã hội học, kinh tế học và chính trị học.

Trong danh sách những môn học ở khoa Tâm lý học tại trường đại học của tôi, môn học bắt buộc đầu tiên trong chương trình là “Dẫn luận về Thống kê và Phương pháp luận trong Nghiên cứu Tâm lý”. Sinh viên ngành tâm lý năm thứ hai phải học “Các phương pháp Thống kê trong Nghiên cứu Tâm lý”. Khổng Tử, Phật, Jesus và Muhammad ắt sẽ bối rối, nếu bạn nói với họ rằng để hiểu được trí não con người và muốn chữa trị các bệnh của nó trước tiên cần nghiên cứu môn thống kê.

Tri thức là sức mạnh

Hầu hết mọi người đều gặp khó khăn khi tiêu hoá khoa học hiện đại, vì ngôn ngữ toán học của nó rất khó để bộ não chúng ta có thể hấp thụ được, và những phát hiện của nó thường mâu thuẫn với cảm tính thông thường. Trong số 7 tỉ người trên thế giới, bao nhiêu người thực sự hiểu cơ học lượng tử, sinh học tế bào hay kinh tế vĩ mô? Dẫu vậy, khoa học vẫn có được uy tín to lớn nhờ vào sức mạnh mới mà nó mang lại cho chúng ta. Tổng thống và tướng lĩnh có thể không hiểu gì về vật lý hạt nhân, nhưng họ hiểu rất rõ về những gì bom nguyên tử có thể làm được.

Năm 1620, Francis Bacon đã công bố một tuyên ngôn khoa học, với nhan đề Bộ công cụ mới. Trong đó, ông lập luận rằng “tri thức là sức mạnh”. Phép thử thực sự của “tri thức” không phải là liệu nó có đúng hay không, mà là liệu nó có trao quyền lực cho chúng ta hay không. Các nhà khoa học thường cho rằng không có lý thuyết nào là chính xác 100%. Do đó, chân lý là một phép thử tồi đối với tri thức. Phép thử thực sự chính là tính ứng dụng của nó. Một lý thuyết, nếu tạo điều kiện cho ta làm những điều mới, thì đó chính là tri thức.

Qua các thế kỷ, khoa học đã cung cấp cho chúng ta nhiều công cụ mới. Một số là công cụ tinh thần, chẳng hạn những công cụ dùng để dự đoán tỉ lệ tử vong và tăng trưởng kinh tế. Quan trọng hơn thế là công cụ công nghệ. Mối liên hệ giữa khoa học và công nghệ mạnh mẽ đến mức ngày nay mọi người có xu hướng nhầm lẫn giữa hai khái niệm. Chúng ta thường nghĩ rằng, không thể nào phát triển được những công nghệ mới nếu không có nghiên cứu khoa học, và rằng nghiên cứu là việc làm gần như vô nghĩa nếu không dẫn đến những công nghệ mới.

Trong thực tế, mối liên hệ giữa khoa học và công nghệ là một hiện tượng mới xảy ra rất gần đây. Trước năm 1300, khoa học và công nghệ là hai lĩnh vực hoàn toàn riêng biệt. Khi Bacon kết nối chúng lại với nhau vào đầu thế kỷ 17, đó là một ý tưởng mang tính cách mạng. Trong thế kỷ 17 và 18, mối liên hệ này được thắt chặt thêm, nhưng nút buộc chỉ đến thế kỷ 19 mới được thắt lại. Thậm chí vào năm 1800, hầu hết các ông hoàng muốn có một quân đội hùng mạnh và phần lớn các tay trùm buôn bán muốn có một công việc kinh doanh thành công, đều không màng đến việc tài trợ cho nghiên cứu trong vật lý học, sinh học hay kinh tế học.

Tôi không có ý cho rằng không có ngoại lệ với quy luật này. Một sử gia giỏi có thể tìm thấy tiền lệ cho mọi thứ. Nhưng một sử gia sẽ còn giỏi hơn nếu biết khi nào những tiền lệ này chỉ là sự hiếu kỳ che phủ mất bức tranh lớn. Nói chung, hầu hết vua chúa và doanh nhân tiền hiện đại đã không tài trợ cho nghiên cứu về bản chất của vũ trụ để phát triển công nghệ mới, và hầu hết các nhà tư tưởng đã không cố gắng biến những khám phá của họ thành tiện ích công nghệ. Các bậc vua chúa đã tài trợ cho các cơ sở giáo dục với sứ mạng truyền bá tri thức truyền thống để gia cố cho trật tự hiện có.

Đây đó có người đã phát triển những công nghệ mới, nhưng chúng thường do mấy thợ thủ công ít học sáng tạo ra theo lối thử và sai, chứ không phải bởi những học giả theo đuổi nghiên cứu khoa học có hệ thống. Năm nay qua năm khác, các nhà sản xuất xe bò hay ngựa kéo vẫn tiếp tục làm cùng loại xe kéo với cùng loại vật liệu. Họ đã không trích một phần lợi nhuận hằng năm nào ra để nghiên cứu và phát triển những mẫu xe mới. Kiểu xe cũng thi thoảng được cải tiến, nhưng thường nhờ vào sự khéo léo của vài thợ mộc địa phương chưa bao giờ được đặt chân vào một trường đại học nào và thậm chí còn không biết đọc.

Điều này là có thật trong khu vực nhà nước cũng như tư nhân. Trong khi các nhà nước hiện đại kêu gọi những nhà khoa học của họ cung cấp giải pháp trong hầu hết mọi lĩnh vực của chính sách quốc gia, từ năng lượng, y tế, cho đến xử lý chất thải, thì những vương quốc cổ đại ít khi làm như vậy. Sự tương phản giữa thời đó và bây giờ thể hiện rõ ràng nhất trong việc chế tạo vũ khí. Khi tổng thống sắp mãn nhiệm Dwight Eisenhower báo động vào năm 1961 về sức mạnh ngày càng tăng của những cụm liên hợp quân sự-công nghiệp, ông đã bỏ qua một vế của phương trình. Lẽ ra ông phải báo động cho nước Mỹ về cụm liên hợp quân sự-công nghiệp-khoa học, bởi vì các cuộc chiến tranh ngày nay là sản phẩm của khoa học. Các lực lượng quân sự trên thế giới đề xướng, tài trợ kinh phí và chỉ đạo phần lớn việc nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của loài người.

Khi Thế chiến I sa lầy vào chiến tranh chiến hào bất tận, cả hai bên đều kêu gọi các nhà khoa học phá vỡ bế tắc và cứu nguy đất nước. Đội ngũ áo trắng đã đáp lại lời kêu gọi, và từ các phòng thí nghiệm tuôn ra một dòng chảy không dứt những loại vũ khí phi thường mới: máy bay chiến đấu, khí độc, xe tăng, tàu ngầm, súng liên thanh, đại bác, súng trường, và bom có uy lực hơn rất nhiều.

Khoa học đã đóng vai trò còn lớn hơn trong Thế chiến II. Đến cuối năm 1944, Đức đang thua cuộc và bại trận là điều sắp xảy ra. Một năm trước đó, đồng minh của Đức là Ý đã lật đổ Mussolini và đầu hàng quân Đồng minh. Nhưng quân Đức tiếp tục chiến đấu, mặc dù quân Anh, Mỹ và Liên Xô đang khép chặt vòng vây. Một lý do khiến binh lính và dân chúng Đức cho rằng không phải đã mất tất cả, là vì họ tin rằng các nhà khoa học Đức sắp đảo ngược tình thế với cái gọi là những vũ khí thần kỳ, chẳng hạn tên lửa V-2 và máy bay phản lực.

 

Hình 32. Tên lửa V-2 của Đức sẵn sàng trên dàn phóng. Nó đã không đánh bại được quân Đồng minh, nhưng nó nuôi hy vọng của người Đức vào một phép màu công nghệ cho đến những ngày cuối cùng của cuộc chiến.

Trong khi Đức tiếp tục phát triển tên lửa và máy bay phản lực, dự án Manhattan của Mỹ đã chế tạo thành công bom nguyên tử. Đến khi bom đã sẵn sàng, vào đầu tháng Tám năm 1943, quân Đức đã đầu hàng, nhưng quân Nhật vẫn còn tiếp tục chiến đấu. Quân Mỹ sửa soạn đánh chiếm quần đảo của người Nhật. Người Nhật thề sẽ chống trả quân xâm lược và quyết tử, và đã có mọi lý do để tin rằng đó không phải là lời đe dọa vô căn cứ. Tướng lĩnh Mỹ nói với Tổng thống Harry S. Truman rằng nếu xâm lược Nhật Bản, Mỹ sẽ mất một triệu lính và sẽ kéo dài cuộc chiến sang tận năm 1946. Truman đã quyết định dùng loại bom mới. Sau hai tuần hứng chịu hai quả bom nguyên tử, Nhật Bản đã đầu hàng vô điều kiện và chiến tranh kết thúc.

Nhưng khoa học không chỉ là vũ khí tấn công. Nó còn đóng một vai trò quan trọng trong chiến lược phòng thủ của chúng ta. Ngày nay, nhiều người Mỹ tin rằng giải pháp cho nạn khủng bố là công nghệ chứ không phải chính trị. Họ tin rằng chỉ cần đầu tư thêm hàng triệu đô-la cho công nghệ nano, Mỹ có thể thả những con ruồi-bay-do-thám xuống từng hang động ở Afghanistan, từng đồn nhỏ ở Yemen và từng trại giam tại Bắc Phi. Một khi làm được điều đó, đội ngũ kế tục của Osama Bin Laden sẽ không thể pha một tách cà phê mà không bị một con ruồi-bay-do-thám CIA. truyền thông tin quan trọng này về tổng hành dinh ở Langley. Cấp thêm hàng triệu đô-la khác cho việc nghiên cứu về bộ óc, và mỗi sân bay có thể được trang bị những bộ quét FMRI siêu tinh vi ngay lập tức có thể nhận ra ý nghĩ tức giận và hận thù trong não người. Liệu điều này có thực sự thành công không? Không ai có thể biết được. Có khôn ngoan không khi phát triển những con ruồi do thám và máy quét đọc được ý nghĩ? Không chắc lắm. Dù vậy, khi bạn đọc những dòng này, Bộ Quốc phòng Mỹ đang chuyển hàng triệu đô-la cho các phòng thí nghiệm não bộ và công nghệ để hiện thực hoá ý tưởng này và những ý tưởng khác.

Nỗi ám ảnh với công nghệ quân sự – từ xe tăng, bom nguyên tử đến ruồi-bay-do-thám – là một hiện tượng đáng ngạc nhiên gần đây. Cho đến thế kỷ 19, đại đa số các cuộc cách mạng quân sự là sản phẩm của những thay đổi về mặt tổ chức hơn là về mặt công nghệ. Khi các nền văn minh xa lạ giao thoa lần đầu tiên, khoảng cách về công nghệ đôi khi đóng một vai trò quan trọng. Nhưng ngay cả trong các trường hợp như vậy, rất ít người nghĩ rằng phải chủ động tạo ra hay mở rộng những khoảng cách đó. Hầu hết các đế quốc không nổi lên nhờ vào những tài năng phi thường về công nghệ, còn những người cai trị chúng đã không nghĩ nhiều đến việc cải tiến công nghệ. Người Ả-rập đã không đánh bại Đế chế Sassanid nhờ vào cung kiếm siêu việt hơn, người Seljuk không có lợi thế kĩ thuật hơn so với người Byzantine, và người Mông Cổ đã không chinh phục Trung Hoa với sự trợ giúp của một số loại vũ khí mới. Thực tế, trong tất cả những trường hợp này, phe bại trận đã sở hữu kĩ thuật dân sự lẫn quân sự đều siêu việt hơn nhiều so với phe thắng trận.

Quân đội La Mã là một ví dụ đặc biệt phù hợp. Đó là quân đội thiện chiến nhất trong thời kỳ đó, nhưng nói về kĩ thuật, La Mã đã không có ưu thế gì hơn so với Đế chế Carthage, Macedonia hay Seleucid. Lợi thế của nó nằm ở lối tổ chức hiệu quả, kỷ luật sắt và nguồn nhân lực khổng lồ. Quân đội La Mã chưa bao giờ thành lập một cơ quan nghiên cứu và phát triển, vũ khí của nó gần như vẫn không tiến bộ mấy trong nhiều thế kỷ. Nếu các quân đoàn của Scipio Aemilianus – vị tướng đã san bằng thành Carthage và đánh bại người Numantia trong thế kỷ 2 TCN – xuất hiện bất ngờ 500 năm sau vào kỷ nguyên của Constantine Đại đế, Scipio đã có thể có một cơ hội đẩy triển vọng để đánh bại Constantine. Bây giờ hãy tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra đối với một vị tướng cách đây vài trăm năm – ví dụ Albrecht von Wallenstein – thủ lĩnh một lực lượng của Đế chế La Mã Thần thánh trong Chiến tranh Ba mươi năm – nếu ông dẫn quân đội gồm các ngự lâm, lính bộ binh dùng giáo, và kị binh chống lại một lữ đoàn biệt kích của quân đội Mỹ đương đại. Wallenstein là một nhà chiến thuật lỗi lạc, và lính của ông là những chiến binh thiện chiến cừ khôi, nhưng tài năng của họ cũng vô dụng trước các loại vũ khí hiện đại.

Ở La Mã hay Trung Hoa cổ đại cũng vậy, hầu hết tướng lĩnh và triết gia đều không nghĩ rằng họ có bổn phận phát triển những vũ khí mới. Phát minh quân sự quan trọng nhất trong lịch sử Trung Hoa là thuốc súng. Tuy nhiên, theo những gì ta được biết, thuốc súng là phát minh ngẫu nhiên của các nhà giả kim Đạo giáo trong quá trình tìm thuốc trường sinh bất lão. Hành trình sau này của thuốc súng lại còn đáng nói hơn. Người ta hẳn cho rằng các nhà giả kim Đạo giáo đã có thể biến Trung Hoa trở thành bá chủ thế giới. Nhưng trên thực tế, người Trung Hoa đã sử dụng hợp chất mới chủ yếu chỉ để làm pháo đốt! Ngay cả khi nhà Tống sụp đổ trước cuộc xâm lăng của Mông Cổ, không có hoàng đế nào nghĩ ra một dự án Manhattan của thời trung cổ để cứu đế chế bằng cách phát minh ra một thứ vũ khí chết người. Chỉ đến thế kỷ 13 – khoảng 600 năm sau khi phát minh ra thuốc súng – đại bác mới trở thành yếu tố then chốt trên các chiến trường Á-Phi. Tại sao phải chờ lâu đến vậy, tiềm năng giết người của loại chất nổ này mới được ứng dụng trong quân sự? Vì nó xuất hiện vào thời điểm mà không có vị quân vương, nhà nghiên cứu, hay nhà buôn nào cho rằng kĩ thuật quân sự mới có thể cứu hay làm giàu cho họ.

Tình hình đã bắt đầu thay đổi trong thế kỷ 13 và 16, nhưng phải mất thêm 200 năm thì các vị vua chúa mới quan tâm đến việc tài trợ cho nghiên cứu và phát triển những loại vũ khí mới. Hậu cần và chiến lược tiếp tục có tác động lớn hơn nhiều đến kết quả của chiến tranh so với công nghệ. Bộ máy quân sự của Napoleon, từng nghiền nát quân đội của những cường quốc châu Âu tại trận Austerlitz (1805), được trang bị loại vũ khí tương tự từ thời Louis XVT. Ngay cả Napoleon, dù là pháo thủ, song không mấy quan tâm đến những loại vũ khí mới, cho dù các nhà khoa học và nhà sáng chế đã cố gắng thuyết phục ông đầu tư phát triển máy bay, tàu ngầm và tên lửa.

Khoa học, công nghệ và kĩ thuật quân sự chỉ gắn bó với nhau khi có sự ra đời của hệ thống tư bản chủ nghĩa và Cách mạng Công nghiệp. Nhưng một khi quan hệ này đã được thiết lập, nó nhanh chóng biến đổi toàn thế giới.

Mô hình lý tưởng của sự tiến bộ

Trước khi có Cách mạng Khoa học, phần lớn các nền văn hoá của nhân loại đều không tin vào sự tiến bộ. Họ nghĩ rằng thời hoàng kim đã là chuyện của quá khứ, và rằng thế giới đang trì trệ, nếu không nói là trở nên xấu đi. Phải bấu víu vào kho trí tuệ uyên thâm xa xưa đó thì may chăng mới có thể mang thời hoàng kim xa xưa trở lại, và tài khéo léo của con người có thể cải thiện được khía cạnh này hay khía cạnh kia của đời sống hằng ngày. Tuy nhiên, liệu trí tuệ của con người có vượt qua được những vấn đề cơ bản của thế giới hay không lại được xem là việc bất khả thi. Nếu ngay cả Muhammad, Jesus, Phật và Khổng Tử – những người biết mọi thứ cần biết – đã không thể xóa bỏ nạn đói, bệnh tật, nghèo khổ và chiến tranh khỏi thế giới này, thì mong gì chúng ta có thể làm được?

Nhiều tín ngưỡng tin rằng, ngày nào đó một đấng cứu thế sẽ xuất hiện và chấm dứt tất cả các cuộc chiến tranh, nạn đói và thậm chí cả cái chết. Còn ý niệm cho rằng loài người có thể làm được như thế bằng việc khám phá tri thức mới và phát minh ra những công cụ mới là điều lố bịch hơn cả lố bịch – đó là sự ngông cuồng. Câu chuyện tháp Babel, câu chuyện Icarus, câu chuyện Golem và vô số huyền thoại khác đã dạy cho con người rằng bất kỷ nỗ lực nào nhằm vượt qua giới hạn con người chắc chắn sẽ dẫn đến những thất vọng và thảm họa.

Khi văn hoá hiện đại thừa nhận có rất nhiều thứ quan trọng mà con người vẫn chưa biết đến, và khi việc thừa nhận sự ngu dốt đó kết hợp nhuần nhuyễn với ý tưởng cho rằng các khám phá khoa học có thể mang lại cho chúng ta những sức mạnh mới, người ta bắt đầu ngờ rằng cuối cùng tiến bộ thực sự có thể xảy ra. Khi khoa học bắt đầu giải quyết lần lượt hết nan để này đến nan đề kia, nhiều người đã bị thuyết phục rằng con người có thể giải quyết được mọi vấn đề bằng cách tiếp thu và áp dụng kiến thức mới. Nghèo nàn, bệnh tật, chiến tranh, đói khát, già nua và thậm chí cái chết đều không phải là định mệnh không thể tránh khỏi của loài người. Chúng đơn giản chỉ là kết quả của sự mông muội của chúng ta mà thôi.

Một ví dụ nổi tiếng là sét. Nhiều nền văn hoá cho rằng sét là cái búa của một vị thần đang nổi giận dùng để trừng phạt những kẻ tội lỗi. Vào giữa thế kỷ 18, một trong những thí nghiệm nổi tiếng nhất lịch sử khoa học, Benjamin Franklin đã thả diều giữa một cơn bão sét để thử nghiệm giả thuyết cho rằng sét đơn giản là một dòng điện. Những quan sát thực nghiệm của Franklin, cộng với kiến thức của ông về bản chất của năng lượng điện, cho phép ông phát minh ra cột thu lôi và tước bỏ vũ khí của những vị thần.

 

Hình 33. Benjamin Franklin tước bỏ vũ khí của các vị thần.

Nghèo đói là một ví dụ điển hình khác. Nhiều nền văn hoá đã xem nghèo đói là một phần không thể thoái thác của thế giới không hoàn hảo này. Theo Tân Ước, ngay trước khi bị đóng đinh, một phụ nữ đã xức cho Chúa Jesus thứ dầu quý trị giá 300 denarii. Môn đệ của Jesus mắng cô về tội lãng phí số tiền lớn đến thế thay vì đem cho người nghèo, nhưng Jesus bênh vực cô, nói rằng “Ngươi sẽ luôn có người nghèo bên cạnh và ngươi có thể giúp đỡ họ bất cứ lúc nào ngươi muốn. Còn ta, ngươi không phải lúc nào cũng có ta” (Mark 14:7). Ngày nay, ngày càng có ít người, nhất là người Ki-tô giáo, đồng ý với Chúa Jesus về vấn đề này. Nghèo đói ngày càng được xem như là một vấn đề kĩ thuật phải được can thiệp. Ngày nay, thông thường ai cũng biết là các chính sách dựa trên những tìm tòi mới nhất trong nông học, kinh tế học, y học và xã hội học có thể loại bỏ đói nghèo.

Và quả thực, nhiều nơi trên thế giới đã thoát khỏi các hình thái tồi tệ nhất của nghèo đói. Trong lịch sử, nhiều xã hội đã điêu đứng vì hai loại đói nghèo: nghèo xã hội tước đi của một số người cơ hội mà những người khác vẫn được hưởng chúng; và nghèo sinh học đặt đời sống của các cá nhân trước nguy cơ thiếu thức ăn và chỗ ở. Có lẽ nghèo xã hội không bao giờ có thể loại trừ được, nhưng ở nhiều nước trên thế giới, nghèo sinh học chỉ còn là chuyện quá khứ.

Cho đến gần đây, hầu hết mọi người còn loanh quanh rất gần với đường ranh giới của cái nghèo sinh học, nếu ở dưới đường đó, một người sẽ thiếu nhiệt lượng cần thiết để duy trì sự sống lâu dài. Thậm chí những tính toán sai lầm hay biến cố nhỏ cũng có thể dễ dàng đẩy người ta xuống dưới đường đó, lâm vào tình trạng chết đói. Thiên tai và thảm họa do con người gây ra thường đẩy toàn bộ dân chúng xuống vực thẳm, gây ra cái chết của hàng triệu người. Ngày nay hầu hết dân chúng trên thế giới có một tấm lưới an toàn giăng ra bên dưới họ. Mỗi cá nhân được bảo vệ khỏi rủi ro cá nhân bằng bảo hiểm, an sinh xã hội do nhà nước tài trợ, và bằng rất nhiều tổ chức phi chính phủ địa phương và quốc tế. Khi tai họa giáng xuống toàn bộ một khu vực nào đó, những nỗ lực cứu trợ toàn cầu thường thành công trong việc ngăn chặn điều tồi tệ nhất. Con người vẫn phải chịu rất nhiều suy thoái, sự sỉ nhục, và các loại bệnh tật liên quan đến đói nghèo, nhưng ở hầu hết các quốc gia không ai phải chịu cảnh chết đói. Thực tế, trong các xã hội, nhiều người đang có nguy cơ tử vong vì bệnh béo phì hơn là vì đói ăn.

Dự án Gilgamesh

Trong tất cả những vấn đề có vẻ như không thể giải quyết được của loài người, có một vấn đề vẫn dễ gây tranh cãi, thú vị và quan trọng nhất: vấn đề về cái chết. Mới đây, trước kỷ nguyên hiện đại, hầu hết các tôn giáo và tư tưởng đã mặc nhiên xem cái chết là định mệnh an bài của chúng ta. Hơn nữa, hầu hết các tín ngưỡng đều biến cái chết thành cội nguồn lẽ sống chính. Hãy thử hình dung về một Hồi giáo, Ki-tô giáo, hay tín ngưỡng Ai Cập cổ đại trong một thế giới không có cái chết. Các đức tin này đều dạy con người rằng, họ phải chấp nhận cái chết và đặt hy vọng vào thế giới bên kia, hơn là tìm cách chiến thắng cái chết và sống bất tử trên Trái đất. Những bộ óc xuất chúng nhất đã bận rộn tìm kiếm ý nghĩa cho cái chết chứ không phải cố gắng để thoát khỏi nó.

Đó là chủ đề của câu chuyện cổ xưa nhất còn lưu truyền đến chúng ta ngày nay – huyền thoại Gilgamesh của người Sumer cổ. Người anh hùng của Sumer là con người mạnh mẽ nhất và có khả năng nhất trên thế giới: Vua Gilgamesh của thành Uruk, người bách chiến bách thắng. Một ngày, Enkidu người bạn thân nhất của Gilgamesh qua đời. Gilgamesh ngồi bên xác chết, quan sát nó trong nhiều ngày, rồi bỗng nhìn thấy một con dòi rơi ra từ lỗ mũi của người bạn. Khoảnh khắc ấy, một nỗi kinh hoàng khủng khiếp đeo đẳng Gilgamesh và ông quyết tâm sẽ không bao giờ để mình chết. Bằng cách nào đó, ông sẽ tìm cách đánh bại cái chết. Gilgamesh sau đó đã thực hiện một hành trình đi đến tận cùng vũ trụ, giết những con sư tử, chiến đấu với những người bọ cạp, và tìm đường đến thế giới bên kia. Ở đó, ông đập tan những người khổng lồ bằng đá của Urshanabi và người chèo thuyền trên con sông tử thần, và đã gặp Utnapishtim, người sống sót cuối cùng của trận đại hồng thủy. Tuy nhiên, Gilgamesh đã thất bại trong mưu cầu của mình. Ông trở về nhà tay không, không thoát được cái chết, nhưng lại có sự giác ngộ mới. Gilgamesh đã học được rằng, khi Thượng đế tạo ra con người, họ đã xác lập cái chết như một định mệnh không thể tránh khỏi, và phải học cách sống chung với nó.

Những môn đồ của sự tiến bộ không đồng tình với thái độ chủ bại này. Đối với những con người của khoa học, cái chết không phải là một định mệnh không thể tránh khỏi, mà chỉ đơn thuần là một vấn để kỹ thuật. Người ta chết không phải vì Thượng đế ra sắc lệnh như vậy, mà do nhiều trục trặc kỹ thuật khác nhau: một cơn đau tim, bệnh ung thư, bệnh nhiễm trùng. Và mọi vấn để kỹ thuật đều có một giải pháp kỹ thuật. Nếu tim đập yếu và không đều, nó có thể được kích bởi một thiết bị điều hòa nhịp tim hoặc được thay bằng một quả tim mới. Nếu tế bào ung thư di căn, chúng có thể bị tiêu diệt bằng thuốc, hoặc xạ trị. Nếu vi khuẩn sinh sôi nảy nở, chúng có thể bị diệt bằng thuốc kháng sinh. Đúng là hiện nay chúng ta chưa thể giải quyết được tất cả những vấn đề kỹ thuật. Nhưng chúng ta đang tìm cách để làm. Những bộ não xuất sắc nhất của chúng ta không uổng phí thời gian gán cho cái chết những ý nghĩa của nó. Thay vào đó, họ đang bận rộn nghiên cứu các cơ chế sinh lý học, nội tiết và di truyền chịu trách nhiệm cho tật bệnh và lão hoá. Họ đang phát triển các loại thuốc mới, các phương pháp điều trị mang tính cách mạng, các cơ quan nhân tạo để kéo dài cuộc sống của chúng ta, và một ngày nào đó có thể đánh bại thần chết Grim Reaper.

Cho tới gần đây, hẳn bạn sẽ không nghe thấy các nhà khoa học, hay bất cứ ai khác, khăng khăng thẳng thừng tuyên bố: “Đánh bại cái chết?! Thật vô nghĩa! Chúng ta chỉ cố gắng để chữa bệnh ung thư, bệnh lao và bệnh Alzheimer”. Mọi người né tránh vấn đề cái chết, vì mục tiêu dường như quá khó nắm bắt. Tại sao lại đưa ra những kỳ vọng không hợp lý như vậy? Tuy nhiên bây giờ đang ở một thời điểm mà chúng ta có thể thẳng thắn về điều đó. Dự án dẫn đầu Cách mạng Khoa học là tạo cho loài người một cuộc sống vĩnh cửu. Dù việc tiêu diệt cái chết có vẻ là một mục tiêu xa vời, chúng ta đã đạt được những thành quả mà một vài thế kỷ trước là điều không thể tưởng tượng được. Năm 1199, Vua Richard Tim Sư tử bị một mũi tên bắn xuyên vai trái. Ngày nay, chúng ta sẽ bảo rằng ông bị một thương tích nhỏ. Nhưng vào năm 1199, khi chưa có thuốc kháng sinh và phương pháp khử trùng hiệu quả, vết thương nhỏ trong da thịt này đã bị nhiễm trùng, và bắt đầu hoại tử. Cách duy nhất để ngăn chặn sự lan rộng của hoại tử trong thế kỷ 12 ở châu Âu là cắt bỏ phần chi bị nhiễm trùng, nhưng điều này bất khả thi khi chỗ nhiễm trùng là ở một bên vai. Chứng hoại tử lan rộng qua cơ thể của Lionheart, và không ai có thể giúp nhà vua. Ông chết trong đau đớn tột cùng hai tuần sau đó.

Gần đây nhất là vào thế kỷ 19, những bác sĩ giỏi nhất vẫn không biết làm thế nào để ngăn ngừa nhiễm trùng và chặn đứng sự thối rữa của các mô tế bào. Trong bệnh viện dã chiến, các bác sĩ hằng ngày phải cưa tay, cưa chân thương binh dù chỉ bị vết thương nhỏ ở chi vì sợ chúng bị hoại tử. Thủ thuật cắt cụt này, cũng như tất cả những thủ thuật y tế khác (như nhổ răng), đã được thực hiện mà không có bất kỳ một loại thuốc gây mê nào. Các loại thuốc gây mê đầu tiên – ether, chloroform và morphine – được đưa vào sử dụng thường xuyên trong Tây y chỉ vào giữa thế kỷ 19. Trước khi chloroform ra đời, mỗi khi có một người lính bị thương, phải cần đến bốn người ghìm chặt anh ta xuống để bác sĩ cưa bỏ phần chi bị thương. Buổi sáng sau trận Waterloo (1815), người ta thấy hàng đống tay, chân bị cưa bỏ bên cạnh những bệnh viện dã chiến. Những ngày ấy, thợ mộc và đồ tể khi gia nhập quân đội thường được gửi đến phục vụ trong những quân đoàn y tế, vì phẫu thuật chẳng qua cũng chỉ yêu cầu biết dùng cưa, dùng dao thạo hơn một chút.

Trong hai thế kỷ kể từ trận Waterloo, nhiều thứ đã thay đổi đến mức không còn nhận ra. Thuốc uống, thuốc tiêm và kĩ thuật giải phẫu tinh vi đã cứu chúng ta khỏi nhiều bệnh tật và thương tích từng là án tử hình cầm chắc cho con người. Chúng cũng bảo vệ chúng ta chống lại vô số đau nhức và bệnh thông thường hằng ngày mà con người thời tiền hiện đại dễ dàng chấp nhận như một phần cuộc sống. Tuổi thọ trung; bình tăng vọt từ khoảng 25-40 tuổi lên khoảng 67 tuổi trên toàn thế giới và khoảng 80 tuổi ở những nước phát triển.

Cái chết hứng chịu thất bại ê chề nhất trên vũ đài giảm tỉ lệ tử vong trẻ em. Cho đến thế kỷ 20, khoảng 1/4 đến 1/3 số trẻ em của các xã hội nông nghiệp không bao giờ sống đến tuổi trưởng thành. Hầu hết đều tử vong vì những căn bệnh trẻ em như bạch hầu, sởi và đậu mùa.

Vào thế kỷ 17 ở Anh, 150/1.000 trẻ sơ sinh tử vong trong năm đầu đời và 1/3 số trẻ em tử vong trước tuổi 15. Ngày nay, chỉ có 5/1.000 trẻ em Anh tử vong trong năm đầu đời và chỉ 7/1.000 trẻ tử vong trước năm 15 tuổi.

Chúng ta có thể hiểu rõ hơn tác động đầy đủ của những con số này, nếu gạt số liệu thống kê sang một bên và dẫn ra một vài câu chuyện. Một ví dụ điển hình là gia đình của Vua Edward I (1237-1307) và vợ ông, Nữ hoàng Eleanor (1241-1290) của Anh. Con cái của họ được hưởng những điều kiện và môi trường nuôi dạy tốt nhất tại châu Âu thời trung cổ. Họ sống trong những cung điện, được ăn uống tùy thích, có vô số quần áo ấm, lò sưởi chứa đầy củi, nguồn nước sinh hoạt sạch nhất, một đội gia nhân và bác sĩ tốt nhất. Tư liệu lịch sử đề cập đến 16 lần sinh nở của Nữ hoàng Eleanor từ năm 1255 đến năm 1284:

1. Con gái, chưa đặt tên, sinh năm 1255, chết ngay sau khi sinh.

2. Con gái Catherine, chết khi 1 hoặc 3 tuổi.

3. Con gái, Joan, chết khi 6 tháng tuổi.

4. Con trai, John, chết khi 5 tuổi.

5. Con trai, Henry, chết khi 6 tuổi.

6. Con gái, Eleanor, chết khi 29 tuổi.

7. Con gái, tên chưa rõ, chết khi 5 tháng tuổi.

8. Con gái, Joan, chết khi 35 tuổi.

9. Con trai, Alphonso, chết khi 10 tuổi.

10. Con gái, Margaret, chết khi 58 tuổi.

11. Con gái, Berengeria, chết khi 2 tuổi.

12. Con gái, chưa đặt tên, chết ngay khi lọt lòng.

13. Con gái Mary, chết khi 53 tuổi.

14. Con trai, chưa đặt tên, chết ngay khi lọt lòng.

15. Con gái, Elizabeth, chết khi 34 tuổi.

16. Con trai, Edward.

Cậu út, Edward, là người đầu tiên trong số các cậu con trai vượt qua được những năm ấu thơ hiểm nghèo, và khi cha chết, cậu lên nối ngôi, lấy hiệu là Edward II. Nói cách khác, Eleanor đã phải mất 16 lần sinh nở để thực hiện sứ mạng quan trọng nhất của một nữ hoàng Anh – sinh cho chồng một con trai nối dõi. Mẹ của Edward II hẳn phải là một người phụ nữ kiên cường và dũng cảm khác thường. Người phụ nữ mà Edward II đã chọn làm vợ, Isabella của Pháp, đã không được như thế. Bà đã giết Edward II khi ông 43 tuổi.

Theo như chúng ta đều biết, Eleanor và Edward I là một cặp vợ chồng khỏe mạnh và không truyền căn bệnh di truyền chết người nào cho con cái. Tuy nhiên, 10 trong số 16 người con – 62% – đã chết ở tuổi ấu thơ. Chỉ có sáu người sống qua tuổi 11 và chỉ ba người – 18% – sống quá tuổi 40. Ngoài những lần sinh nở này, Eleanor rất có thể đã bị sảy thai vài lần. Tính trung bình, Edward I và Eleanor cứ ba năm lại mất một đứa con, hết đứa này đến đứa khác, 10 đứa tất cả. Đó là sự mất mát mà một người làm cha mẹ ngày nay gần như không thể nào tưởng tượng được.

Dự án Gilgamesh – chinh phục sự bất tử – mất bao lâu mới có thể hoàn thành? 100 năm? 500 năm? 1.000 năm? Nhớ lại năm 1900 chúng ta đã ấu trĩ như thế nào về cơ thể người, vậy mà chỉ trong một thế kỷ chúng ta đã thu lượm được bao nhiêu kiến thức, và có lý do để lạc quan. Các kĩ sư di truyền học gần đây đã thành công trong việc tăng gấp sáu lần tuổi thọ trung bình của loài giun tròn Caenorhabditis elegans. Liệu họ có thể làm tương tự với Homo sapiens hay không? Những chuyên gia về công nghệ nano đang phát triển một hệ thống miễn dịch điều khiển bằng điện tử, gồm hàng triệu robot nano sống trong cơ thể của chúng ta, làm thông những mạch máu bị tắc nghẽn, chống lại virus và vi khuẩn, loại bỏ những tế bào ung thư, và thậm chí đảo ngược quá trình lão hoá của con người. Vài học giả nghiêm túc thì đưa ra giả thiết rằng đến khoảng năm 2050, một số người sẽ không chết già (không phải bất tử bởi họ vẫn có thể chết vì một tai nạn nào đó, mà là không chết già, nghĩa là nếu không có những chấn thương chết người, đời sống của họ có thể kéo dài đến vô hạn).

Dù dự án Gilgamesh có thành công hay không, thì từ góc độ lịch sử, thật hấp dẫn khi thấy rằng hầu hết các tôn giáo và tư tưởng thời cận đại đã đưa cái chết và thế giới bên kia ra khỏi phương trình cuộc đời. Cho đến tận thế kỷ 18, các tôn giáo vẫn coi cái chết và hậu quả của nó đóng vai trò trung tâm trong ý nghĩa cuộc sống. Bắt đầu từ thế kỷ 18, các tôn giáo và tư tưởng như chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa xã hội và phong trào bình quyền nữ giới đã không còn bận tâm về thế giới bên kia nữa. Chính xác thì cái gì sẽ xảy ra với một người theo chủ nghĩa cộng sản sau khi anh ta hay chị ta chết? Cái gì sẽ xảy ra với một người theo chủ nghĩa tư bản? Cái gì sẽ xảy ra với một người theo thuyết nam nữ bình quyền? Sẽ vô ích khi kiêm câu trả lời trong những tác phẩm của Marx, Adam Smith hay Simone de Beauvoir. Tư tưởng hiện đại duy nhất vẫn dành cho cái chết một vai trò trung tâm là chủ nghĩa dân tộc. Trong những khoảnh khắc thi vị và tuyệt vọng hơn bình thường, chủ nghĩa dân tộc đã hứa hẹn rằng bất cứ ai chết cho dân tộc sẽ mãi mãi sống trong kí ức tập thể của nó. Tuy nhiên, lời hứa này mù mờ đến nỗi ngay cả những người theo chủ nghĩa dân tộc cũng không thực sự biết nó là gì.

Mỏ tiền của khoa học

Chúng ta đang sống trong thời đại khoa học kĩ thuật. Nhiều người tin rằng khoa học và kĩ thuật nắm giữ chìa khoá cho mọi vấn đề của chúng ta. Chỉ cần để cho các nhà khoa học tiếp tục với công việc của mình, họ sẽ tạo ra thiên đường ở ngay trên mặt đất. Nhưng khoa học không phải là dự án diễn ra ở một bình diện tinh thần hay đạo đức siêu phàm hơn các phần còn lại trong hoạt động của con người. Giống như tất cả những bộ phận khác của văn hoá chúng ta, khoa học được đẽo gọt nên từ những lợi ích về kinh tế, chính trị và tôn giáo.

Khoa học là một sự nghiệp rất tốn kém. Để phục vụ việc tìm hiểu hệ thống miễn dịch của con người, một nhà sinh vật học cần có phòng thí nghiệm, ống nghiệm, hoá chất và kính hiển vi điện tử, chưa kể đến các phụ tá phòng thí nghiệm, thợ điện, thợ ống nước và lao công. Một nhà kinh tế học tìm kiếm các thị trường tín dụng mẫu mực phải mua máy vi tính, thiết lập ngân hàng dữ liệu khổng lồ, và xây dựng những chương trình xử lý dữ liệu phức tạp. Một nhà khảo cổ học muốn hiểu được hành vi của người săn bắt hái lượm cổ đại, phải đi đến những vùng đất xa xôi, khai quật phế tích cổ đại, và xác định niên đại của xương hoá thạch và các đồ chế tác. Tất cả những điều này đều tốn khá tiền.

Trong suốt 300 năm qua, khoa học hiện đại đã đạt được những kỳ tích, phần lớn nhờ các chính phủ, doanh nghiệp, tổ chức và các nhà tài trợ tư nhân, sẵn lòng đổ hàng tỉ đô-la cho nghiên cứu khoa học. Hàng tỉ đô-la này đã hỗ trợ việc lập biểu đồ vũ trụ, vẽ bản đồ các hành tinh, lên danh mục thế giới động vật, nhiều hơn so với những gì Galileo Galilei, Christopher Columbus và Charles Darwin đã làm. Nếu những thiên tài đặc biệt này không sinh ra trên đời, thì quan điểm của họ vẫn có thể nảy ra ở những người khác. Nhưng nếu không có nguồn tài chính thỏa đáng, thì không trí tuệ xuất chúng nào có thể bù đắp cho điều đó. Chẳng hạn, nếu Darwin chưa bao giờ sinh ra, ngày nay chúng ta sẽ xem thuyết tiến hoá là của Alfred Russel Wallace, người mà một vài năm sau đó đã đi đến ý tưởng về tiến hoá qua chọn lọc tự nhiên một cách độc lập với Darwin. Nhưng nếu các cường quốc châu Âu không tài trợ cho nghiên cứu về địa lý, động vật và thực vật trên khắp thế giới, thì cả Darwin lẫn Wallace đều sẽ không có dữ liệu thực nghiệm cần thiết để phát triển thuyết tiến hoá. Có khả năng là ngay cả họ cũng sẽ không thử tìm cách làm việc này.

Tại sao hàng tỉ đô-la bắt đầu chảy từ những kho bạc của chính phủ và doanh nghiệp vào các phòng thí nghiệm và trường đại học? Trong giới học thuật, có nhiều người đủ ngây thơ để tin vào khoa học thuần túy. Họ tin rằng chính phủ và doanh nghiệp đã cấp tiền cho họ dưới tinh thần vị tha để theo đuổi bất cứ dự án nghiên cứu nào lôi cuốn họ. Nhưng điều này hầu như không mô tả được hiện thực của việc tài trợ cho khoa học.

Hầu hết các nghiên cứu khoa học đều được tài trợ bởi ai đó tin rằng chúng có thể giúp họ đạt được một số mục tiêu chính trị, kinh tế, hay tôn giáo. Lấy ví dụ, trong thế kỷ 16, vua chúa và ngân hàng rót những khoản tài trợ khổng lồ cho các cuộc thám hiểm địa lý trên thế giới, nhưng không dành một xu nào cho việc nghiên cứu tâm lý trẻ em. Lý do là vì các quân vương và ông chủ ngân hàng đã phỏng đoán rằng việc phát kiến về kiến thức địa lý mới sẽ cho phép họ chinh phục vùng đất mới và thiết lập đế quốc thương mại, họ không thấy bất kỳ mối lợi nào trong việc tìm hiểu tâm lý trẻ em.

Trong thập niên 1940, chính phủ Mỹ và Liên Xô đã rót những nguồn lực to lớn cho việc nghiên cứu vật lý nguyên tử chứ không đầu tư cho ngành khảo cổ học dưới nước. Họ phỏng đoán rằng nghiên cứu vật lý nguyên tử sẽ giúp họ phát triển vũ khí hạt nhân, trong khi khảo cổ học dưới nước khó có thể giúp họ thắng lợi trong chiến tranh. Bản thân các nhà khoa học không phải lúc nào cũng nhận ra được lợi ích chính trị, kinh tế và tôn giáo vốn kiểm soát dòng chảy của đồng tiền; nhiều nhà khoa học, trên thực tế, hành động bắt nguồn từ sự tò mò trí tuệ thuần túy. Tuy nhiên, hiếm khi các nhà khoa học có thể định đoạt chương trình nghiên cứu khoa học.

Ngay cả nếu chúng ta muốn tài trợ cho khoa học thuần túy mà không bị chi phối bởi lợi ích chính trị, kinh tế, tôn giáo, điều này có lẽ là bất khả thi. Xét cho cùng, các nguồn lực của chúng ta đều có giới hạn. Hãy đề nghị một nghị sĩ phân bổ thêm vài triệu đô-la cho Quỹ Khoa học Quốc gia dành cho nghiên cứu cơ bản, và ông ta sẽ cật vấn một cách chính đáng rằng, chẳng phải số tiền đó sẽ phát huy hiệu quả hơn nếu dùng để tài trợ cho việc đào tạo giáo viên, hay cắt giảm thuế cho một nhà máy trong khu vực bầu cử của ông ta hiện đang gặp khó khăn tài chính. Để điều hướng những nguồn lực giới hạn này, chúng ta phải trả lời các câu hỏi như “Điều gì quan trọng hơn?” và “Điều gì là tốt?” Đây không phải là các câu hỏi mang tính khoa học. Khoa học có thể giải thích những gì tồn tại trong thế giới, sự việc xảy ra như thế nào, và tương lai sẽ là gì. Theo định nghĩa, khoa học không có tham vọng biết những gì nên có trong tương lai. Chỉ có các tôn giáo và tư tưởng mới đi tìm câu trả lời cho câu hỏi như vậy.

Hãy xem xét tình thế khó xử sau đây: hai nhà sinh vật học cùng lĩnh vực, có kĩ năng chuyên môn giống nhau, đều làm hồ sơ xin một khoản tài trợ 1 triệu đô-la cho dự án nghiên cứu hiện tại của họ. Giáo sư Slughorn muốn nghiên cứu một căn bệnh nhiễm trùng bầu vú bò, làm giảm 10% sản lượng sữa của chúng. Giáo sư sprout muốn nghiên cứu xem liệu những con bò mẹ có bị đau đớn gì về tinh thần không khi bị tách khỏi bê con. Giả sử tổng số tiền hạn hẹp và không thể nào tài trợ cho cả hai dự án nghiên cứu, vậy cái nào nên được tài trợ?

Không có đáp án mang tính khoa học cho câu hỏi này. Chỉ có những đáp án mang tính chính trị, kinh tế và tôn giáo. Trong thế giới ngày nay, rõ ràng là khả năng Slughorn được tài trợ là cao hơn. Không phải vì bệnh viêm vú bò thú vị hơn về mặt khoa học so với việc nghiên cứu tâm lý loài bò, mà vì ngành công nghiệp sữa sẽ có thể được hưởng lợi từ việc nghiên cứu có tầm ảnh hưởng về chính trị và kinh tế hơn so với nhóm vận động cho quyền của loài vật.

Có lẽ trong một xã hội Hindu hà khắc, nơi bò là loài vật thiêng, hay trong một xã hội tôn trọng quyền của loài vật, Giáo sư sprout sẽ có một cơ may tốt hơn. Nhưng chừng nào bà còn sống trong một xã hội đề cao tiềm năng thương mại của sữa và sức khỏe của công dân người hơn là cảm xúc của loài bò, tốt nhất là bà nên viết lại đề xuất nghiên cứu của mình, để có sức hút đối với những giả định trên. Ví dụ, bà có thể viết rằng “sự phiền muộn dẫn đến sự sụt giảm sản lượng sữa. Nếu chúng ta hiểu được thế giới tinh thần của bò sữa, chúng ta có thể phát triển những dược phẩm tâm thần cải thiện tâm trạng của chúng, từ đó tăng sản lượng sữa lên đến 10%. Tôi ước tính rằng có một thị trường dược phẩm tâm thần dành cho bò sữa trên thế giới trị giá khoảng 250 triệu đô-la mỗi năm”.

Khoa học không thể thiết lập những ưu tiên riêng của nó. Nó cũng không đủ khả năng xác định phải làm gì với những khám phá của mình. Ví dụ, từ một quan điểm khoa học thuần túy, chúng ta vẫn chưa rõ liệu mình nên làm gì với khối kiến thức di truyền học ngày càng gia tăng. Chúng ta có nên dùng kiến thức này để chữa bệnh ung thư, để tạo ra siêu nhân biến đổi gen, hay tạo ra loài bò sữa với bầu vú cực lớn? Rõ ràng một chính quyền tự do, một chính quyền cộng sản, một chính quyền quốc xã và một công ty kinh doanh tư bản sẽ sử dụng những khám phá khoa học giống nhau cho những mục đích hoàn toàn khác nhau, và không có lý do khoa học nào để thiên vị cách này hơn cách khác.

Nói tóm lại, nghiên cứu khoa học chỉ có thể phát triển thịnh vượng khi kết hợp với một tôn giáo hay ý thức hệ nào đó. Ý thức hệ biện hộ cho các chi phí của nghiên cứu. Đổi lại, ý thức hệ chi phối chương trình khoa học và quyết định làm gì với những phát kiến. Vậy nên, để hiểu nhân loại đã đạt đến thành tựu Alamogordo và đặt chân lên Mặt trăng – chứ không phải một bất kỳ nơi nào trong những điểm đến khác – sẽ là không đủ nếu chỉ nghiên cứu thành tựu của các nhà vật lý học, sinh học và xã hội học. Chúng ta phải xem xét các sức mạnh tư tưởng, chính trị và kinh tế đã định hướng cho vật lý học, sinh học và xã hội học, đẩy chúng đi theo những hướng nhất định trong khi bỏ qua những hướng khác.

Hai sức mạnh cụ thể đáng để chúng ta chú ý đến là: chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa tư bản. Vòng hồi tiếp giữa khoa học, đế quốc và tư bản vẫn được tranh cãi là động cơ chính của lịch sử trong 500 năm qua. Những chương tiếp theo phân tích hoạt động của nó. đầu tiên, chúng ta sẽ tìm hiểu chiếc turbine kép – khoa học và đế quốc – đã được cài chốt vào nhau như thế nào, và sau đó tìm hiểu cả hai đã bị trói buộc vào cái máy bơm tiền của chủ nghĩa tư bản ra sao.

 

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Nhấn vào giữa màn hình để hiển thị Tùy chọn đọc.
Theo dõi Đọc Sách Hay trên Facebook, mỗi ngày chúng tôi cập nhật những cuốn sách, truyện hay nhất!
Sapiens: Lược Sử Loài Người PHÁT HIỆN RA SỰ NGU DỐT

Có thể bạn thích