Sau nửa tháng vượt suối trèo non, đoàn sứ thần An Nam đưa được cống phẩm đến Bắc Kinh.

Nam Cung Giao và anh em họ Trịnh đã đồng hành cùng họ để đề phòng bất trắc.

Trong thời gian này, Đạm Thủy luôn quấn quít bên chàng.

Chuyện trò thân mật, nàng đã nguyện dạy Nam Cung Giao nói tiếng An Nam và vô cùng thán phục khi thấy học trò của mình tiếp thu rất nhanh.

Ngược lại, Đạm Thủy bắt chàng phải dạy tiếng Bắc Kinh cho mình.

May thay, tuy không được đến trường học hành tử tế, song nhờ có người mẹ văn võ toàn tài nên Nam Cung Giao chẳng phải là kẻ dốt nát.

Trinh Tâm thông minh mẫn tiệp, được Đặng Tất hết lòng yêu mến, đi đâu cũng cho theo trong việc giao thiệp với quan lại nhà Minh, suốt thời gian ông trá hàng, đều qua sự phiên dịch của ái nữ. Chính vì thế mà Trinh Tâm không như những thiếu nữ Giao Châu khác!

Là con quan, nàng được học hành chu đáo, văn hay chữ tốt, thông thạo cả tiếng Quảng Đông lẫn Bắc Kinh!

Trung Hoa đất rộng người đông, mỗi địa phương đều có ngôn ngữ riêng, vậy thì trong triều đình bá quan nói năng với nhau thế nào?

Bá quan là tập hợp những nhân tài trong cả nước, xuất thân khác nhau, nếu không có một ngôn ngữ chung thì nguy to, chẳng ai hiểu ai nói gì!

Thời Chiến Quốc, người nước Yên không hiểu tiếng Sở, người nước Triệu không biết tiếng nước Việt (Lưỡng Quảng), chữ viết cũng có chỗ khác nhau.

Sau khi thống nhất Trung Hoa, Tần Thủy Hoàng sai Tể Tướng Lý Tư thống nhất ngôn ngữ và văn tự.

Về chữ viết, họ Lý đặt ra lối chữ Tiểu Triện giản dị và thông dụng.

Nhưng về ngôn ngữ thì không sử gia nào ghi chép lại rằng nhà Tần chọn loại tiếng nói của vùng nào để làm ngôn ngữ chung cho cả nước, ít nhất là để sử dụng trong việc học hành hay cai trị!

Ngay cả những triều đại sau này như Hán, Tùy, Đường cũng vậy.

Hậu thế không biết ngày xưa Lý Bạch đã ngâm thơ ca tụng nhan sắc Dương Qúi Phi bằng tiếng Quảng hay tiếng Tiều!

Người đời sau chỉ có thể phỏng đoán, dựa theo vị trí của kinh đô mỗi triều đại, rằng vua quan các nhà ấy dùng tiếng Trường An (Thiểm Tây).

Nhưng tiếng Bắc Kinh thì có căn cứ rõ ràng hơn, vì Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn quê ở vùng phía Nam Bắc Kinh. Vua nói tiếng gì thì chắc các quan cũng phải học thứ tiếng ấy để khỏi bị rơi đầu!

Sau này, người Mông Cổ chiếm được Trung Hoa cũng đặt kinh sư ở Bắc Kinh, đặt tên là Đại Độ Tất nhiên họ phải sử dụng ngôn ngữ của địa phương sở tại!

Rồi đến khi Minh Thành Tổ dời đô từ Kim Lăng ra Bắc Kinh, học trò cả nước bắt buộc phải biết tiếng Bắc Kinh thì mới mong thi cử, làm quan.

Ngay đám hào kiệt giang hồ, nếu muốn tung hoành tứ hải, dọc ngang thiên hạ thì cũng phải học nói thứ tiếng phổ thông này, để đỡ phải mỏi tay!

Nam Cung Giao nuôi chí tang bồng hồ thỉ nên không thể không biết! Và thầy của chàng chính là mẫu thân!

Trinh Tâm giao thiệp với quan lại nhà Minh nên vốn liếng tiếng Bắc Kinh của bà văn hoa, quan cách chứ chẳng phải dân dã, quê mùa!

Cũng như Trinh Tâm, Cầm Đạm Thủy không nhuộm răng, vì bộ tộc của nàng không có tập quán này! Trong khi Lê Khả và Nguyễn Đào đều có nụ cười đen bóng!

Tình cảm giữa nàng và Nam Cung Giao ngày càng sâu đậm, nhưng kẻ Nam người Bắc xem ra khó mà thành tựu!

Họ chia tay nhau trong cảm giác bùi ngùi, lưu luyến.

Nam Cung Giao dặn dò:

- Tam vị cứ về dịch xá nghỉ ngơi, chờ triệu kiến! Có gì khó khăn cứ đến Trịnh Gia trang ở cạnh Thần Nông Đàn tìm tại hạ!

Trịnh Gia Trang chính là nhà cũ của anh em họ Trịnh.

Đạm Thủy vui vẻ đáp:

- Tiểu muội còn ở đây cả tháng để làm đẹp cho Hoàng Thái Hậu, dù không có việc cần, tiểu muội cũng sẽ đến thăm công tử!

Song phương cáo từ, mỗi phe mỗi ngả. Dịch xá ở trong Hoàng Thành, còn Trịnh Gia trang nằm tại ngoại thành!

Trịnh mẫu thấy mặt hai đứa con bất hiếu, lêu lổng, mừng đến ứa nước mắt, song vẫn mắng chưởi:

- Hai ngươi phá tan cơ nghiệp rồi bỏ lão thân mà đi biền biệt, chắc không kiếm đủ ăn nên lại mò về chứ gì? Thật tủi hổ cho tông môn họ Trịnh!

Trịnh Tháo xấu hổ với Nam Cung Giao, lén nháy mắt ra hiệu rồi cười giả lả:

- Mẫu thân đã trách oan bọn hài nhi rồi. Mấy năm qua, anh em hài nhi làm công sai cho phủ Thượng Thư ở Nam Kinh. Do việc quan đa đoan nên không thể về vấn an từ mẫu. Nay hiền tế của Mã Thượng Thư đi công cán Bắc Kinh, bọn hài nhi cũng được cử theo, sẵn dịp thăm nhà.

Làm mẹ, ai cũng mong con cái công thành danh toại, Trịnh mẫu nghe nói hai con phục vụ cho phủ Thượng thư, liền hoan hỉ, vái chào Nam Cung Giao, mời chàng ngồi!

Nam Cung Giao nhìn quanh, thấy nhà cửa xềnh xoàng, biết Trịnh Gia trang đang rất thiếu khốn. Mái tóc bạc phơ và thân hình ốm yếu của Trịnh mẫu đã khiến chàng cảm thương.

Rõ ràng là hai gã bất hiếu tử kia đã không hề chu cấp cho từ mẫu. Phải chăng vì cái danh hiệp đạo mà các môn nhân Thế Thiên Hội đều nghèo mạt rệp?

Chàng muốn bà lão kia được an nhàn, sung túc trong quãng đời còn lại nên cung kính nói:

- Bẩm lão thái! Nhị vị đây dầy công hạng mã với Bộ Hình suốt mấy năm quạ Do vậy, gia nhạc phụ là Mã Thượng Thư đã quyết định ban thưởng năm trăm lượng vàng, nhờ tiểu điệt trao tận tay lão thái gọi là tuyên dương công lao của Trịnh Gia, đã sản sinh, giáo huấn nên hai bầy tôi mẫn cán cho triều đình!

Trịnh mẫu sững sờ kinh ngạc, không hiểu mình mơ hay tỉnh. Hai thằng con trời đánh thánh vật kia mà lại có thể làm rạng rỡ tông môn được sao?

Cả Trịnh Tháo và Trịnh Mãng cũng bất ngờ, lòng tràn ngập cảm giác biết ơn, chàng đã khéo léo làm vui lòng người mẹ già tội nghiệp của họ!

Trịnh mẫu run rẫy nhận lấy tờ ngân phiếu, luôn miệng cảm tạ Ơn đức của Mã Thượng Thư!

Số vàng này đủ để bà sửa chữa trang viện và sống an nhàn đến cuối đời, với niềm tự hào về hai đứa con anh hùng!

Nếu bà biết sự thực về nghề nghiệp ăn cướp của Trịnh Tháo và Trịnh Mãng thì sẽ đứt gân máu chết ngay.

Sau bốn ngày dạo chơi, thăm thú thắng cảnh Bắc Kinh, nhân tiện tìm Mộc Kính Thanh và điều nghiên địa thế phủ Bình Phiên Công.

Nam Cung Giao quyết định ra tay!

Trương Phụ được phong tước Công, nên dù đã trí sĩ, vẫn được ở trong tòa phủ đệ vua ban. Mười năm nay, họ Trương không tham chính nhưng vẫn được tôn trọng như người lão tướng tài ba nhất của hai đời vua Thành Tổ và Tuyên Tôn.

Nghe đồn rằng, từ ngày cáo lão qui điền, ở tuổi sáu mươi lăm, Trương Phụ dốc chí tu hành, ngày ngày kinh kệ, giữ giới cư sĩ. Có lẽ lão sám hối cho những tội lỗi đã gây ra trong hai lần chinh phạt An Nam!

Kẻ tu hành thì nếp sống giản dị, gia nhân không nhiều.

Nam Cung Giao và anh em họ Trịnh dễ dàng xâm nhập vào đến tận khu hậu viện, dù trời mới giữa canh hai.

Nam Cung Giao nấp ngoài cửa sổ nhìn lão già râu tóc bạc phơ, mặc tăng phục xanh xám kia, mà lòng phân vân vô hạn.

Giờ đây, gương mặt quắc thước của Trương Phụ toát ra vẻ từ bi hiền hòa. Lão đang ngồi xếp bằng trước tượng Phật Như Lai, mắt nhắm hờ, miệng tụng niệm kinh A Di Đà, tay gõ chuông mõ!

Hết khóa lễ, Trương Phụ đứng lên khấn vái:

- Đệ tử kiếp này gây nhiều sát nghiệp, về già lòng vô cùng hối hận, xin thành tâm trai giới tu hành, cầu siêu giải oan cho hàng vạn nạn nhân năm xưa!

Lão thở dài, rời Phật Đường, đi vào thư phòng ở gần đấy.

Lúc này mà Nam Cung Giao xuất thủ thì Trương Phụ chẳng thể thoát chết, nhưng chàng vẫn do dự bất quyết!

Trịnh Mãng thì thầm:

- Nếu không tha được thì phải giết ngay! E rằng sau này chẳng có cơ hội tốt nữa?

Nam Cung Giao gật đầu, cùng anh em họ Trịnh lao về phía thư phòng.

Viên Tổng quản già của phủ cầm đèn lồng đến tìm chủ nhân:

- Bẩm đại nhân! Có quan Thái Bảo Liễu Di Phu đến cầu kiến, đang chờ ở khách sảnh.

Liễu Di Phu là bào đệ của Minh lỗ phó Tướng Quân An Viễn Hầu Liễu Thăng, người bị quân của Lê Sát chém chết ở núi Đảo Mã Pha (phía Nam ải Chi Lăng) vào ngày hai mươi tháng chín năm Đinh Mùi, nhằm năm Tuyên Đức thứ hai, đời vua Minh Tuyên Tông!

Liễu Di Phu được Tập Tước Hầu của anh trai, đường hoạn lộ rất hạnh thông, hiện là đương kim Thái Bảo Triều Minh. Uy quyền của Di Phu chỉ dưới có mình lão Thái sư Triển Tài.

Trương Phụ chào khách rồi điềm đạm hỏi:

- Chẳng hay Liễu Hầu gia giá lâm tệ phủ vì việc gì?

Liễu Di Phu nghiêm giọng:

- Nay vua An Nam là Lê Thái Tông còn nhỏ tuổi, quyền hành tập trung cả vào tay gã ngu phu Lê Sát.

Đây chính là cơ hội tốt nhất để chúng ta khởi binh chinh phạt An Nam! Tiểu đệ được sự ủng hộ của các đại thần, định sẽ khải tấu lên thánh thượng, xin người hạ chỉ xuất chinh! Trương túc hạ là người hai lần đại thắng An Nam, xin chỉ giáo cho tiểu đệ vài yếu quyết về chiến lược!

Trương Phụ rót trà mời khách, trầm ngâm một lúc rồi đáp:

- Lão phu biết Hầu gia chưa quên được mối thù giết anh, quyết lấy đầu Lê Sát! Tuy nhiên, theo thiển ý của lão phu thì việc chinh phục An Nam là hoàn toàn không nên làm!

Thứ nhất là vì xứ An Nam nhỏ bé chưa bao giờ là hiểm họa của Trung Hoa. Họ chỉ mong được yên thân, cầu hòa chứ chẳng dám nghĩ đến việc xâm phạm cương thổ Minh Triều!

Họ Trương nhấp hớp trà rồi nói tiếp:

- Thứ hai, đất An Nam hiểm trở, thủy thổ không thích hợp với quân ta, có đánh được cũng phải chịu thương vong rất lớn!

Thứ ba, giống dân Giao Chỉ kia tuy nhút nhát, cầu an, song khi ra trận mạc thì rất can đảm và có kỷ luật, chẳng hề chịu khuất phục. Tóm lại, dẫu có chiếm được đất cũng chẳng thể giữ được lâu!

Trong khi rợ Mông cổ đang dòm ngó biên cương phía Bắc thì việc đánh An Nam là bất trí vậy!

Liễu Di Phu sa sầm nét mặt:

- Không ngờ Trương túc hạ lại là kẻ khiếp nhược như thế! Phu này chẳng cần kinh nghiệm của túc hạ cũng có thể chiếm được An Nam một cách dễ dàng!

Lão phất tay áo giận dữ bỏ về, chẳng thèm chào hỏi chủ nhà.

Trương Phụ nhìn theo, buột miệng than:

- Nếu Thánh thượng nghe lời lão côn đồ kia thì máu xương lại chất chồng lên đất An Nam. Sáng mai, ta phải vào triều cảnh tỉnh Thiên Tử mới được.

Nam Cung Giao ở ngoài nghe thấy hết, quyết định tha thứ cho Trương Phụ! Người chàng phải giết sẽ là những vị đại phần đang chủ trương xâm chiếm An Nam!

Ba người trở về Trịnh Gia trang.

Trịnh Mẫu hớn hở nói:

- Lão thân biết công tử đi chơi khuya về tất sẽ đói bụng, nên đã nấu sẵn nồi cháo gà.

Trịnh Mãng cười hì hì:

- Mẫu thân quả là tinh ý và chu đáo. Hài nhi cũng đang thèm rượu!

Bà lão trợn mắt:

- Ngươi cứ mở miệng ra là rượu chè! Nay đã là người của quan nha, phải biết giữ tư cách chứ!

Anh em họ Trịnh nhìn nhau vui vẻ.

Trịnh Tháo tủm tỉm đỡ lời em:

- Mẫu thân yên tâm! Chỉ khi về nhà bọn hài nhi mới uống thôi, còn lúc thi hành công vụ, dẫu một giọt cũng chẳng dám! Tóm lại, anh em hài nhi học theo công tử đây, mỗi ngày tối đa là ba chén.

Trịnh Mẫu hài lòng:

- Thế thì tốt!

Bà quay xuống bếp, lát sau cùng một phụ nhân tuổi ngũ thập dọn cháo lên.

Người đàn bà này là cháu họ của Trịnh mẫu, do góa bụa côi cút nên đến ở với Biểu Di.

Thấy Nam Cung Giao trầm tư nâng chén uống mãi, Trịnh Tháo nghiêm giọng:

- Công tử! Anh em thuộc hạ biết phận hèn mọn chẳng dám hỏi đến tâm sự của bậc quí nhân, song, nếu phải vào cung hành thích Hoàng Đế thì cũng chẳng từ nan! Xin công tử cứ dạy bảo!

Trịnh Mãng tiếp lời:

- Chim khôn lựa cành mà đậu. Anh em thuộc hạ đã nguyện suốt đời theo phò công tử dẫu chết cũng chẳng màng!

Nam Cung Giao nhìn hai gương mặt rắn rỏi, chân thành của họ, gật gù đáp:

- Nhị vị đã có lòng như vậy thì ta cũng chẳng dấu! Gia mẫu là người Giao Chỉ!

Trước khi rời Bắc Kinh, đến Trường An gia nhập Thế Thiên Hội, Trịnh Tháo và Trịnh Mãng chỉ là Đại ca của bọn côn quang đế độ Giờ đây, hai gã tìm đến bọn thủ hạ cũ, điều động chúng thực hiện một kế hoạch tinh vi!

Lão Đại Bắc Kinh hiện nay vốn là đệ tử ruột của Trịnh Tháo, tên gọi Lương Nhẫn biệt hiệu Thiên Gia Thử, đao pháp cũng khéo và xảo quyệt như chồn!

Nay sư phụ trở về, thưởng ngay cho trăm lượng vàng, khiến họ Lương khoan khoái, hết lòng phục vụ!

Chỉ đến chiều ngày rằm, Thiên Gia Thử đã tìm ra tung tích của Mộc Kính Thanh.

Bẩy ngày trước, họ Mộc đã từ Kế Thành Đại Lữ Điếm đến Cầu Lô Câu, đứng tựa thành cầu ngắm nước chảy rất lâu. Sau đó, không thấy đâu cả, hành lý vẫn còn trong quán trọ.

Lô Câu kiều năm ở phía Tây Nam Bắc Kinh, được xây dựng năm Kỷ Dậu (1189), nhằm năm Trùng Hưng thứ mười sáu đời Nam Tống.

Lúc này, miền Bắc Trung Hoa đã thuộc về rợ Kim, và tương ứng với năm Đại Định thứ hai mươi chín, đời vua Kim Thế Tông Hoàn Diên Ung!

Vậy, cầu Lô Câu, tên ban đầu là Quảng Lợi, do rợ Kim xây dựng, nhưng tất nhiên cả thầy thợ đều là người Hán.

Rợ Kim là một bộ lạc đông đúc ở miền thượng du Hắc Long Giang, tên gọi Nữ Chân (vùng bộ tộc với Mãn Châu).

Người Kim lạc hậu dốt nát, tính tình hung hãn, chỉ được cái đánh nhau là giỏi! Thế nên, họ chẳng thể nào đủ đầu óc và khéo léo để xây một chiếc cầu nguy nga, hùng vĩ như Lô Câu Kiều được.

Cầu Lô Câu là cây cầu đá dài nhất, cổ nhất ở Hoa Bắc. Cầu được ghép bằng đá, dài hơn tám chục trượng, rộng gần ba trượng, trên thân khắc nổi bốn trăm tám mươi lăm con sư tử đá! Trên cầu còn có bốn hoa Biển và bốn bia đá rất lớn.

Cây cầu kỳ vĩ này nằm trong một phong cảnh tuyệt đẹp, nên đã trở thành đề tài ngâm vịnh cho các tao nhân mặc khách.

Nam Cung Giao không đến đây để làm thơ! Chàng đứng trên cầu đăm chiêu suy nghĩ, cố đoán xem từ đây Mộc Kính Thanh đã đi đâu mà lại không trở về quán trọ? Và vì sao gã lại không đến giết Trương Phụ như đã định?

Chàng dõi mắt nhìn quanh, chợt phát hiện trong cánh rừng xa xa kia thấp thoáng có mái ngói của một tòa nhà cao nào đấy, liền hỏi Thiên Gia Thử:

- Này Lương túc hạ? Chẳng hay những cơ ngơi trong khu rừng kia thuộc về ai vậy?

Lương Nhẫn cung kính đáp:

- Bẩm công tử! Chủ nhân nơi ấy là một lão già tuổi quá bẩy mươi, họ Lâm. Ba năm trước, lão từ Giang Nam về đây mua nguyên cánh rừng ba chục mẫu ấy và xây dựng nhà cửa! Tiểu nhân có thử mò vào thăm, nhưng không sao qua nổi trận pháp trong vườn. Tiểu nhân đoán lão ta là một bậc kỳ nhân võ nghệ cao cường chứ chẳng chơi!

Gã là học trò của Trịnh Tháo nên không dám xưng là thuộc hạ.

Nam Cung Giao hiếu kỳ hỏi:

- Sao túc hạ lại kết luận như thế?

Lương Nhẫn đắc ý đáp:

- Tiểu nhân đâu dám nói càn. Số là, có một hôm, tiểu nhân đang ngồi nhậu trong một tửu quán ở phố Thiên Kiều thì thấy lão họ Lâm kia đi dạo.

Lúc ấy, trên vỉa hè có ba gã da đen nhẻm, tướng mạo hung ác, chắc là hải tặc biển Đông. Họ vừa chạm mặt Lâm lão là quì ngay xuống, lạy như tế sao.

Tiểu nhân loáng thoáng nghe ba gã gọi Lâm lão đầu là Đảo chủ! Họ Lâm chỉ gật gù, xua tay, thế là ba hán tử kia rảo bước chuồn thẳng.

Nam Cung Giao bâng khuâng suy nghĩ, miệng lẩm bẩm:

- Chữ Mộc chẳng phải là một nửa của chữ Lâm hay sao?

Chàng chợt linh cảm rằng Mộc Kính Thanh có liên quan đến Lâm gia trang. Dù không dám chắc lắm nhưng chàng vẫn phải bám víu lấy manh mối duy nhất này.

Chàng hỏi lại:

- Có cách nào để vào Lâm gia trang một cách đường chính hay không?

Lương Nhẫn gãi đầu tính toán, rồi mỉm cười:

-Bẩm có, Lâm Trang chủ rất khoái nuôi chim cảnh! Chúng ta chỉ cần tìm cho ra một con chim thật đẹp, thật khôn, mang đến bán cho lão là cửa trang rộng mở ngay!

Trịnh Mãng gật gù:

- Thế thì đêm nay chúng ta sẽ bắt trộm con Bạch Anh Vũ của lão Lưu Tài Thần ở phố Tô Châu nhuộm lông đem đến đấy gạ bán!

Trịnh Tháo cười nhạt:

- Ngươi đúng là ngu như heo. Con chim ấy nói tiếng người rất sõi, coi chừng chính nó sẽ khai ra lai lịch đấy!

Lương Nhẫn lắc đầu:

- Sư phụ yên tâm! Con chim quỉ ấy đã nghẽo hồi năm ngoái, còn con hiện nay chưa biết nói! Cứ nhuộm đen là xong!

Nam Cung Giao phì cười:

- Nói bậy! Trên đời này làm gì có chim vẹt màu đen?

Lương Nhẫn ngoan cố cãi lại:

- Chúng ta cứ nói phức là loài Hắc Anh Vũ hiếm có này được đưa từ Miến Điện hay Xiêm La sang, thì bố lão ta cũng không bắt bẻ được! Bạch Anh Vũ thì đâu chẳng có, phải là của lạ lão ta mới chịu tiếp.

Nam Cung Giao chỉ cần gặp mặt lão họ Lâm là đủ, nên để mặc Lương Nhẫn làm theo ý của gã!

Sáng mười bẩy, Nam Cung Giao cùng Lương Nhẫn có mặt trước cửa Lâm Gia trang, gõ vào cánh cửa dày kiên cố và đồ sộ, được sơn đen bóng.

Trong tay Nam Cung Giao là một chiếc lồng chim nan đồi mồi khảm bạc giá mười lượng vàng. Đây là chiếc lồng đắt nhất Bắc Kinh! Còn con chim Vẹt đen thui ấy lại là thứ hiếm có nhất trên đời!

Trịnh Tháo đã dùng loại thuốc hóa trang đặc biệt của Thế Thiên Hội để nhuộm lông con vật, chỉ chừa lại chiếc mỏ, đôi chân và mào!

Lát sau, cánh cửa hé mở, và một nữ lang áo xanh kiều diễm xuất hiện.

Nàng chớp mắt tủm tỉm hỏi:

- Chư vị là ai, đến đây vì việc gì?

Nam Cung Giao cười đáp:

- Bọn tại hạ từ phương Nam lên Bắc Kinh du ngoạn, chẳng may cạn túi thiếu lệ phí về quệ Nghe Lương huynh đây bảo rằng quí trang chủ có thú chơi chim nên tại hạ đánh liều đem con Hắc Anh Vũ này đến bán.

Nữ lang che miệng cười khúc khích, ánh mắt đầy vẻ tinh ranh:

- Ối chà! Công tử quả khéo đùa, trên đời này làm gì có chim vẹt màu đen?

Nam Cung Giao thản nhiên đáp:

- Trời đất bao la, chuyện lạ chẳng thiếu! Trước khi bọn Tây Dương đến Trung Hoa buôn bán, chẳng ai tin rằng trên đời này lại có những cặp mắt xanh biếc như mắt mèo!

Nữ lang phì cười:

- Công tử quả là khéo biện luận, nhưng gia phụ không hiền như tiểu muội đâu!

Nam Cung Giao giật mình vòng tay:

- Thất lễ! Thất lễ! Té ra là Lâm Tiểu thư! Tại hạ là Nam Cung Giao hân hạnh bái kiến!

Nữ lang nghiêng mình đáp lễ:

- Tiểu muội là Lâm Bảo Thoa! Còn vị anh hùng đây danh tính thế nào?

Nam Cung Giao liền giới thiệu Lương Nhẫn với nàng!

Bảo Thoa mở rộng cửa, mời khách nhập trang.

Lương Nhẫn cáo thoái để một mình Nam Cung Giao vào thôi. Gã ở lại cũng chỉ vướng chân chàng khi cần đào tẩu!

Vào đến khách sảnh, nàng để khách ngồi ở bàn bát tiên mà chạy vào gọi cha!

Nam Cung Giao tranh thủ quan sát khách sảnh, cố tình ra chút dữ kiện để bám víu. Chàng chỉ vào đây tìm Mộc Kính Thanh một cách vô căn cứ nên lòng rất băn khoăn, hồi hộp.

Trên tường Đông có treo một bức họa chân dung, vẽ một lão nhân đang đứng trên lưng Giao long, tay cầm trường tiên, phong thái cực kỳ oai vũ.

Nam Cung Giao hoan hỉ thở phào, thầm đoán Kính Thanh là con trai hay học trò của Lâm Trang chủ, vì gã cũng sử dụng roi mềm.

Đã có được chứng cớ quan trọng, chàng bình thản trở về bàn ngồi.

Lâm Trang chủ đã ra đến, dung mạo giống hệt như lão nhân trong tranh.

Lão không cao lớn, ngũ quan đoan chính, mắt sáng như sao, thần thái uy nghiêm khiếp người.

Khách đứng lên thi lễ với chủ nhân.

Lâm lão nhìn Nam Cung Giao chăm chú, nhãn quang sắc như dao.

Chàng nổi da gà, tự nhủ:

- Lão già này xem ra rất khó chơi, ta phải cẩn thận mới được!

Và chàng lên tiếng:

- Bẩm Trang chủ! Vãn bối là Nam Cung Giao, người miền Nam, vì thiếu lệ phí về quê nên đem chim quí đến đây nhờ pháp nhãn của Trang chủ thưởng lãm!

Lâm Trang chủ nhìn con chim Anh Vũ đen tuyền, trong chiếc lồng đặt trên bàn, lạnh lùng nói:

- Lão phu đâu phải trẻ con để người hí lộng? Nếu không giải thích rõ ràng thì đừng hòng sống mà rời khỏi chốn này!

- Bẩm trang chủ! Vãn bối mua còn Hắc Anh Vũ này của một lão Đạo Sĩ đất An Dương. Lúc đầu vãn bối cũng nghi ngờ, nhưng lão ta đã nói: Này tiểu thí chủ! Đạo trời đất biến hóa vi diệu khôn lường, hà tất phải để tâm đến việc có hay không có? Hàng ngàn năm nay, chẳng ai tận mắt thấy rồng, thế mà tranh, tượng của rồng đầy dẫy Trung Hoa! Chắc gì rồng là có thực, và chắc gì con vẹt lông đen này không có thực. Vãn bối nghe hữu lý nên đã mua chim của lão.

Lâm Trang chủ cười nhạt:

- Đừng ngụy biện! Cả rồng lẫn chim Anh Vũ đen đều không có thực!

Nam Cung Giao cười hề hề:

- Trang chủ đã từng cỡi rồng vượt biển, sao lại bảo rằng rồng không có thực!

Lâm Trang chủ giật mình ngơ ngác, và nhớ ra bức họa trên tường.

Lão cứng họng chịu thua, gật gù khen:

- Tiểu tử ngươi quả là khéo biện luận, gài được cả lão phụ Ta có nghe đồ đệ Mộc Kính Thanh kể về tài trí của ngươi, lòng không mấy tin tưởng, nay gặp mặt mới biết chẳng sai!

Nam Cung Giao vui mừng khôn xiết quì xuống thi đại lễ:

- Vãn bối nóng lòng vì sự thất tung bí ẩn của Mộc nghĩa đệ nên mạo muội làm càn, mong Lâm sư phụ lượng thứ.

Lâm Trang chủ gật gù:

- Té ra ngươi đã nhuộm lông con chim này!

Nam Cung Giao chợt nhận ra tia mắt cổ quái của lão, sinh lòng cảnh giác, đứng lên đáp khéo:

- Vãn bối xin thề là lúc nhìn thấy lần đầu tiên thì lông nó đã là màu đen.

Chàng rất thành thực vì đúng là anh em họ Trịnh đã nhuộm lông con vẹt ở nhà Lương Nhẫn, chàng chẳng hề thấy!

Nam Cùng Giao không để ý rằng ánh mắt của Bảo Thoa đầy vẻ hài lòng.

Lâm Trang chủ cười nhạt:

- Ngươi đề phòng cả lão phu, chứng tỏ bản tính đa nghi, cơ cảnh, vậy vì sao lại đem cả bí mật trọng đại ra thố lộ với Kính Thanh?

Nam Cung Giao gượng cười:

- Vãn bối yêu mến Mộc hiền đệ như bản thân mình, giấu giếm làm gì! Xin Lâm sư phụ cho vãn bối được gặp y!

Lâm Trang chủ ngửa cổ cười dài, làm rung rinh mái ngói đại sảnh.

Giọng cười của ông đầy vẻ phẫn nộ và thê thiết:

- Kính Thanh gây đại họa, làm lão phu mất mặt, chẳng dám lưu lại biển Đông, phải về đây ẩn cư! Năm ngoái, y lại trốn đi, sống lang thang như kẻ lạc phách. Khiến lão phu càng tủi hổ! Nay lão phu đã giam cầm y trong trang không cho ra ngoài nữa. Ngươi hãy về đi!

Nam Cung Giao chết điếng người, suy nghĩ một lúc rồi nghiêm giọng:

- Vãn bối chỉ xin được gặp một lần, biết y còn sống là sẽ rời đây ngay!

Lâm Trang chủ quắc mắt:

- Chẳng lẽ ngươi cho rằng lão phu đã giết chết Kính Thanh?

Nam Cung Giao bình tĩnh đáp:

- Vãn bối chẳng dám có ý ấy, nhưng không thấy mặt y thì chẳng thể yên lòng!

Lâm Trang chủ hững hờ bảo:

- Ngươi đừng sinh cường trước mặt lão phu, Lâm Thu Bái ta chính là Chu Sơn Đảo Chủ, ba mươi năm trước từng đại náo võ lâm Trung Nguyên, chưa hề gặp đối thủ! Lão phu đã ra tay thì cực kỳ tàn nhẫn, nếu ngươi không sợ chết thì cứ thử trăm chiêu!

Nam Cung Giao chụp ngay cơ hội!

- Cảm tạ sư phụ đã mở cho lối thoát, nếu vãn bối vượt qua được trăm chiêu, mong sư phụ tha cho Kính Thanh!

Lâm Thu Bái nhíu mày:

- Y tàn phế, xấu xí như vậy, đâu đáng để người phải thí mạng?

Nam Cung Giao mỉm cười:

- Vãn bối cũng sợ chết lắm. Hay là sư phụ thương tình tha quách cho Kính Thanh! Xét ra, y có hơi bướng bỉnh, phá phách, song cũng chưa bằng việc đại náo võ lâm!

Nghe chàng nói kháy mình, Lâm Thu Bái bực bội:

- Đừng xảo ngôn vô ích. Muốn cứu Kính Thanh thì hãy rút gươm ra! Thoa nhi lấy roi cho ta!

Bảo Thoa mau mắn chạy vào, trở ra với một sợi nhuyễn tiên đen tuyền, thân lớn độ ngón chân cái, dài nửa trượng không biết làm bằng vật liệu gì.

Lâm lão cầm vòng roi, lạnh lùng nói:

- Lão phu sẽ biểu diễn chút nghề mọn để ngươi tự lượng sức mà rút lui?

Ông ta vừa nói xong thì cây nhuyễn tiên đột ngột vươn dài, thẳng băng như cây trường côn. Chu Sơn Đảo Chủ đặt mũi roi vào cột gỗ tròn bằng gỗ trắc cứng rắn và chậm rãi đẩy.

Khủng khiếp thay, mũi roi cắm ngập vào gỗ cả lóng tay, cứ như cắm vào đậu hũ.

Lâm Thu Bái rút roi lại, nhìn Nam Cung Giao với vẻ đe dọa:

- Liệu thân thể ngươi có cứng rắn bằng gỗ trắc hay không? Thức thời thì hãy rời trang ngay!

Chàng tủm tỉm cười:

- Cột gỗ tuy cứng rắn nhưng không biết tránh né, vãn bối thì ngược lại.

Lâm trang chủ ngao ngán lắc đầu:

- Không ngờ ngươi lại ngu xuẩn đến mức không biết sống chết là gì!

Lão phu cũng thương tình nên cho phép bãi chiến nữa chừng, khi không còn cầm cự nổi ngươi cứ lên tiếng đầu hàng!

Nam Cung Giao cười mát:

- Cảm tạ Trang chủ! Có điều trong trận này vãn bối bắt buộc phải đánh đến chiêu cuối cùng!

Chàng rút kiếm, vòng tay chào rồi đứng theo tư thế Phiên Dực Tung Phi!

Lâm Thu Bá gật gù tán thưởng, quay lại nói với ái nữ:

- Thoa nhi hãy làm trọng tài, đếm theo số chiêu mà ta đánh ra!

Bảo Thoa gật đầu, ngượng ngùng thỏ thẻ:

- Mong phụ thân nhẹ tay cho!

Lâm lão nháy mắt trấn an nhưng ngay chiêu đầu đã xuất tuyệt kỷ.

Ngọn nhuyễn tiên của họ Lâm như con rồng đen lồng lộn trong mây, chụp lấy đối phương.

Nam Cung Giao nhận ra trong, màn hắc quang mù mịt kìa có hàng trăm chiếc đầu độc xà đang ung dung uy hiếp toàn thân, tiên kình rít lên như xé lụa, chứng tỏ công lực Lâm Thu Bái cực kỳ thâm hậu.

Chàng cắn răng thi triển chiêu Vạn Diệp Tế Hoa (vạn lá che hoa) chỉ thủ chứ không công. Tay chàng chớm động vì lực đạo mạnh mẽ của cây roi, đường kiếm hơi lệch đi, lộ sơ hở, và ngay lập tức bị mũi roi mổ vào bả vai trái. Máu từ vết thương bắn ra, vương vãi không gian khi Lâm lão rút roi về!

Lão không đánh tiếp mà nhẩy lùi lại ngạo nghễ hỏi:

- Sao? Ngươi còn dám lớn họng nữa không?

Nam Cung Giao đưa tay điểm huyệt chỉ huyết, bình thản đáp:

- Cảm tạ Lâm sư phụ đã nương tay nên vết thương không sâu lắm! Vãn bối xin được lĩnh giáo thêm!

Chàng cúi đầu để tỏ vẻ biết ơn, song lại thuận thế lao đến tấn công để chiếm tiên cơ.

Roi của họ Lâm dài gấp rưỡi Lạc Điểu Kiếm nên chàng chỉ có cách nhập nội mới mong chiếm được ưu thế!

Quả nhiên, Lâm Thu Bái vướng Bảo Thoa sau lưng không thể lùi lại, đành để mất tiên cơ.

Lão thu ngắn nhuyễn tiên, cẩn trọng giải phá những chiêu kiếm liên miên bất tuyệt của tiểu tử xảo trá, lì lợm kia, vì giờ đây mũi kiếm của Nam Cung Giao có thể chạm vào người lão.

Chẳng trách năm xưa Lâm Thu Bái không tìm ra địch thủ, phép đánh roi của lão trên đời có một không hai.

Màn tiên cũng thu hẹp lại càng dầy đặc kín đáo và mãnh liệt chứ không hề giảm sút uy lực.

Tuy nhiên, Lạc Điểu kiếm pháp lại có lộ số khác hẳn kiếm thuật Trung Nguyên, chiêu thức nhanh như thiểm điện, chủ yếu là những thức đâm, ngay lúc chém cũng dùng mũi kiếm. Do đặc tính này, nhiều lần roi của Lâm lão đã quấn được kiếm của đối phương thì bị tuột ra ngaỵ Mà đây lại là điểm lợi hại nhất trong phép đánh nhuyễn tiên.

Lâm Bảo Thoa thánh thót đếm nhanh đến líu cả lưỡi cho kịp tốc độ của trận đấu.

Nam Cung Giao đánh một hơi ba mươi sáu chiêu mới bị đẩy bật ra.

Bị chàng dồn ép, lòng tự tôn của Lâm Thu Bái bị tổn thương, lão gầm lên, dồn toàn lực vào ngọn roi tấn công như vũ bão.

Nam Cung Giao liên tiếp thoái hậu, tận dụng bộ pháp để tránh né, thỉnh thoảng mới phản kích được một đòn.

Đến chiêu thứ tám mươi hai thì ngực chàng đã lảnh ba đường, tuy vết thương không nặng nhưng do chẳng rảnh tay chỉ huyết nên máu chảy đầm đìa, nhuộm hồng vạt trước của bộ võ phục màu thanh thiên.

Bảo Thoa vẫn không dám ngừng đếm mà nước mắt chảy ròng ròng, tội nghiệp cho chàng trai cương cường trọng nghĩa kia!

Có lẻ Lâm Thu Bái cũng luyến tài, dừng tay lên tiếng:

- Lão phu khuyên ngươi nên bỏ cuộc, nếu không thì đừng hòng sống sót!

Nam Cung Giao nhân cơ hội này chăm sóc vết thương, giả đò tần ngần cân nhắc, nhưng thực ra ngấm ngầm điều khí lấy lại chút sức lực.

Bảo Thoa buồn bã nói:

- Công tử đừng cố nữa. Gia phụ xưa nay chưa từng để ai sống sót qua khỏi chiêu thứ một trăm!

Nam Cung Giao nheo mắt đáp:

- Cảm tạ tiểu thư đã quan hoài! Nãy giờ tại hạ vì kính lão nên không dám xuất kỳ chiêu đấy thôi! Thực ra tại hạ chỉ cần một chiêu cũng đủ thủ thắng! Gia mẫu từng bảo rằng chiêu kiếm này tuyệt đối không ai giải phá nổi!

Lâm Thu Bái cười rộ:

- Thật là khoác lác, ngươi cứ thi thố thử xem thế nào!

Nam Cung Giao vái dài:

- Cảm tạ Lâm sư phụ đã bớt cho mười bảy chiêu, xin người cẩn trọng, chiêu kiếm này ảo diệu vô song, hiểm ác khôn lường.

Dứt lời, chàng dựng đứng trường kiếm trước mặt, tay tả xoè ra, đỡ lấy chuôi kiếm, mắt nhắm hờ, thần thái trầm ổn, sát khí dàn dụa.

Lâm Đảo Chủ không dám khinh thường, vội dồn nội lực vào thân roi chờ đợi.

Nam Cung Giao chợt mở to mắt, thân kiếm vung lên, hóa thành ngàn kiếm ảnh mờ mờ, che kín toàn thân, chẳng còn thấy đâu cả. Và trái cầu thép ấy lao thẳng vào Lâm Trang Chủ.

Thu Bái thấy kiếm ảnh liền lạc như da trời, chẳng hề có một sơ hở nào, lòng vô cùng hoang mang dồn toàn lực vào nhuyễn tiên, quất những roi mãnh liệt, chủ yếu để chặn đứng đối phương chứ không nghĩ đến chuyện giết chóc. Các cao thủ lão thành thường cẩn trọng, khi không nắm chắc thì chẳng bao giờ liều lĩnh.

Tuy không cao lớn và có thần lực bẩm sinh như Quỉ Côn, nhưng nhờ lúc trẻ ăn được kỳ trân biển Đông, nên Thu Bái sở hữu đến bảy mươi năm chân khí, hơn cả Đường Cổ Ngư!

Tất nhiên, Nam Cung Giao không thể nào chịu nổi, văng ngược về phía sau.

Dẫu không trúng đòn nhưng sự va chạm với luồng kình lực nặng như núi kia đã khiến khí huyết chàng nhộn nhạo máu rỉ ra khoé miệng.

Song, chàng vẫn còn sống, và như thế là quá đủ.

Nam Cung Giao đưa ống tay áo lau máu miệng, vái thật sâu:

- Bản lãnh của Lâm sư phụ thật đáng xưng vô địch. Vãn bối đã giở đến tuyệt chiêu thủ mạng mà không thể đụng đến chéo áo của người, nhưng cũng may mắn qua được thử thách!

Lâm Thu Bái bối rối hỏi:

- Chiêu kiếm kia là của phái nào mà lại không hề có sơ hở như vậy?

Nam Cung Giao mỉm cười:

- Bẩm Lâm sư phụ! Đấy là chiêu Mật Trướng Đương Phong (Mùng kín chống gió) vốn là chiêu thủ, không hề có một thức công nào thì làm sao có sơ hở được! Vãn bối biết mình không qua nổi trăm chiêu nên mới nói khéo để có thể dồn hết sức vào một chiêu cuối cùng. Dù chiêu thức để tấn công thì ít nhất cũng bảo toàn được mạng sống!

Chu Sơn Đảo Chủ hiểu ra, ngửa cổ cười khanh khách:

- Ngươi quả là một chàng trai trí dũng song toàn, trong hiểm cảnh luôn tìm được lối thoát! Thế mà lão phu lại tưởng trên đời có một chiêu kiếm toàn mỹ thượng đẳng đến thế nên không dám phản kích!

Lão chợt nghiêm sắc mặt:

- Lão phu đồng ý để Kính Thanh đi theo ngươi, nhưng nếu ngươi không tận tình chăm sóc, bảo vệ cho nó thì đừng trách lão phu tàn nhẫn!

Ánh mắt lão như lưỡi dao cạo lướt trên mặt Nam Cung Giao, khiến chàng rùng mình, vội đáp:

- Lâm sư phụ yên tâm. Vãn bối và Mộc hiền đệ đã có lời thề đồng sanh, đồng tử.

Bảo Thoa bật cười khúc khích:

- Phải chăng công tử đã thề rằng chết cùng ngày, cùng tháng nhưng không cùng năm chứ gì?

Nam Cung Giao gượng cười:

- Cô nương thật khéo đánh trúng tim đen người khác. Song thực ra, dẫu có thề thốt thế nào cũng không quan trọng bằng tấm lòng đối với nhau!

Bảo Thoa tinh quái nói:

- Tiểu muội nghe Mộc sư huynh kể rằng công tử có rất nhiều vợ đẹp, đắm chìm trong son phấn, còn thời gian đâu mà dành cho bằng hữu nữa?

Nam Cung Giao gật gù:

- Tại hạ hứa từ nay thỉnh thoảng lại ôm Kính Thanh mà ngủ để y khỏi tủi thân!

Bảo Thoa thẹn thùng cự nự:

- Công tử nói kỳ quá!

Lâm Thu Bá cười ha hả:

- Ngươi làm sao đấu khẩu lại gã tiểu tử xảo trá này. Hãy vào bảo Kính Thanh tắm gội, chuẩn bị hành lý xuất trang.

Bảo Thoa dạ rất ngoan, rao bước đi ngay.

Ở đây Lâm trang chủ vui mời khách an tọa trên bàn bát tiên, cuối sảnh đã có sẵn một khay rượu nhỏ!

Chủ khách cạn chun đầu, Thu Bái bỗng nói:

- Tài trí, nhân phẩm của ngươi đã khiến lão phu mến mộ, muốn đem Bảo Thoa gả cho ngươi thấy thế nào?

Nam Cung Giao chính sắc đáp:

- Đa tạ Trang Chủ đã nhủ lòng thương tưởng, song vãn bối quả không dám nhận lãnh. Cảnh chồng chung thực ra cũng chẳng hay ho gì? Rất thiệt thòi cho lệnh ái!

Lâm lão cười nhạt:

- Ngươi đã nói thế thì sau này đừng đến lạy lục lão phu mà xin cưới đấy nhé!

Nam Cung Giao mỉm cười tự tin:

- Vản bối sắp rời khỏi Bắc Kinh, không có dịp tiếp xúc với lệnh thiên kim thì làm sao say mê được?

Lâm lão phì cười, lắc đầu chán ngán:

- Lão phu cũng không hiểu ngươi là kẻ có trí hay xuẩn ngốc nữa?

Rồi lão nói sang chuyện khác:

- Lão phu nghe Kính Thanh kể rằng ngươi đã ước hẹn tử đấu với Thiếu Cốc Chủ Vô Thanh cốc Khương Thư Hàn và lệnh nhạc phụ là Mã Thượng Thư đã quyết dùng quân triều đình để bảo vệ ngươi! Nhưng lão phu muốn biết chủ ý của ngươi?

Nam Cung Giao trầm ngâm đáp:

- Vãn bối tuy không lụy vì hư danh, song vẫn muốn giữ khí tiết của kẻ trượng phu, đành phải tận lực phó ước, gác chuyện sinh tử ra ngoài.

Chu Sơn Đảo Chủ hài lòng gật gù:

- Hảo hài tử. Ngươi khá lắm! Lão phu không muốn ngươi chết nên sẽ tặng cho một bửu bối để phòng thân!

Lâm Thu Bái võ nghệ cao siêu quán thế, đáng được tôn làm Thiên Hạ Đệ Nhất Nhân. Nay lão đã mở miệng đòi truyền tuyệt kỹ, Nam Cung Giao vui mừng khôn tả, quỳ ngay xuống lạy tạ!

Lâm lão xua tay, bảo chàng ngồi lên rồi vuốt râu kể:

- Thực ra, trong lần vào Trung Nguyên ba mươi năm trước, lão phu đã gặp một địch thủ xứng tay, đó là Long Giác Thần Quân Khương Quang Bật.

Song phương tỉ thí hơn ngàn chiêu mà vẫn không phân thắng bại, nên bãi chiến! Về đến đảo Chu Sơn, lão phu ấm ức, cố tìm cách giải phá tuyệt học của đối phương.

Sau nhiều năm lao tâm khổ trí, lão phu đã sáng tạo ra một bộ pháp ảo diệu, khả dĩ vô hiệu hóa được kiếm pháp Vô Thanh quái dị của họ Khương. Tuy đã nắm chắc thắng, song do lòng hiếu danh đã nhạt, lão phu không tìm Long Giác Thần Quân nữa. Nay lão phu sẽ dạy cho ngươi pho Hư Ảnh Thần Bộ.

Lão đứng lên dắt chàng ra vườn sau khách sảnh, chỉ vào chín viên đá trắng trên mặt cỏ.

Bát quái đồ tuy đơn giản nhưng gồm thâu vận động cả vũ trụ. Võ học cũng không ở ngoài lẽ ấy! Ngươi hãy đứng vào trung cung, tức viên gạch ở giữa, rồi lão phu sẽ chỉ dạy yếu quyết biến hóa.

Nam Cung Giao luyện tập đến trưa thì thuộc hết chương pháp, đường lối, nhưng chưa thể gọi là tinh thông.

Thế mà Lâm Thu Bái cất lời khen:

- Căn cơ của ngươi quả hiếm có trên đời! Hãy cố khổ luyện đạt đến mức tinh túy thì ngay cả Long Giác Thần Quân cũng khó mà giết được ngươi trong vòng hai trăm chiêu!

Nam Cung Giao cười mát:

- Thế thì vãn bối sẽ bỏ chạy sau khi đánh xong chiêu thứ một trăm chín mươi chín!

Lâm lão nghiêm giọng:

- Kiếm thuật của ngươi phối hợp với bộ pháp này, mà có thêm khoảng hai mươi năm chân khí nữa, thì chẳng còn phải sợ Khương lão quỉ. Nhưng hiện tại thì ngươi không phải địch thủ của lão, vì vậy, tuyệt đối không nên giết Thư Hàn!

Vả lại, giết người cũng chẳng hay ho gì!

Nam Cung Giao vội kính cẩn cúi đầu tuân mệnh, theo Lâm lão trở vào khách sảnh.

Chàng khát khô cả cổ, thầm chê Bảo Thoa thiếu tế nhị, chẳng đem trà nước ra đãi đằng.

Chàng bỗng nghĩ lại người đẹp đang bận rộn nấu nướng để đã cơm mình, không ngờ Mộc Kính Thanh lên đến, tay nải trên vai, vui vẻ nói:

- Chúng ta đi thôi, đại ca!

Nam Cung Giao nhìn gã bằng ánh mắt tràn ngập yêu thương và trách móc:

- Hiền đệ âm thầm bỏ đi, lại thất tung bất ngờ khiến ta lo lắng muốn chết! Ta phải đánh cho ngươi sưng mông lên mới được!

Mặt họ Mộc rám nắng nên không thấy đỏ, nhưng đôi mắt đen láy kia lộ vẻ hổ thẹn.

Gã đảo mắt liếc Lâm Trang Chủ rồi cằn nhằn Nam Cung Giao:

- Sao đại ca lại nói những lời ấy trước mặt Gia sư?

Chàng quay sang phân bua với Chu Sơn Đảo Trang Chủ, không nhận ra vẻ mặt lão rất kỳ quái:

- Lâm sư phụ! Vãn bối làm anh nên luôn dạy bảo Kính Thanh. Vãn bối sờ nắn, thấy khắp người y gân cốt mềm nhão, liền la mắng, bắt y phải thường xuyên luyện võ nghệ, và cấm không được lăn lóc nơi kỹ viện. Y lại trả lời rằng vì luyện Nhuyễn Cốt Thần Công nên da thịt mới mềm mại như thế! Dám hỏi Lâm sư phụ có đúng vậy chăng?

Lâm Thu Bái ôm bụng cười sặc sụa rồi quát lên:

- Hai ngươi có cút nau không? Lão phu giết chết cả hai bây giờ!

Kính Thanh bỏ chạy như bị ma đuổi, Nam Cung Giao cũng vái vội chủ nhân rồi rượt theo!

Về đến Trịnh Gia Trang, Kính Thanh lập tức bị lôi vào bàn nhậu.

Anh em họ Trịnh đã thân với Kính Thanh từ hồi ở phủ Thượng Thư.

Nam Cung Giao thay áo, tắm rửa, băng bó sơ rồi trở ra, ăn như rồng cuốn.

Được tám chín chén chàng mới buông đũa, kể cho Trịnh Tháo và Trịnh Mãng nghe cuộc tỷ thí của mình và Lâm Trang Chủ!

Trịnh Tháo giật mình:

- Thuộc hạ từng nghe thúc phụ Trịnh Kiều nhắc đến Chu Sơn Đảo Chủ, không ngờ ông ta lại là sư phụ của Mộc công tử đây!

Tương truyền, tính tình Lâm Đảo Chủ cực kỳ cổ quái, lãnh đạm, xuất thủ không biết nương tay!

Kính Thanh cắt lời gã:

- Sao ngươi lại dám nói xấu gia sư? Nếu ông thực sự tàn nhẫn thì Nam Cung đại ca đã chết từ lâu rồi!

Nam Cung Giao xác nhận:

- Đúng vậy! Ta chỉ thắc mắc vì sao Lâm sư phụ lại cố tình thị uy, bắt ta bãi chiến? Ngay chiêu đầu ta đã thọ thương, lòng vô cùng khiếp sợ, nhưng vì nghĩ đến cảnh Kính Thanh bị giam cầm nên đành phải liều!

Mộc Kính Thanh cười hì hì:

- Đại ca tốt với tiểu đệ quá. Nhưng mà nhờ vậy mới thu hoạch được lợi lớn là pho Hư Ảnh Thần Bộ.

Nam Cung Giao hỏi lại:

- Dường như ngươi cũng không biết công phu này?

Kính Thanh gật đầu:

- Gia sư vừa mới hoàn thành hồi cuối năm ngoái, tiểu đệ có ở nhà đâu mà học? Mấy ngày trước, vì nhớ ân sư nên mò về thăm và xin ông tha lỗi. Nào ngờ sư phụ nổi lôi đình, bắt nhốt, cấm không cho xuất trang nữa!

Nam Cung Giao hỏi tiếp:

- Thế ba năm trước ngươi gây ra tai họa gì mà Lâm Đảo Chủ hổ thẹn đến mức phải rời Chu Sơn vào Trung Nguyên ẩn mặt?

Kính Thanh chớp đôi mắt tinh quái, ngượng nghịu đáp:

- Tiểu đệ bị gia sư ép lấy cháu gái của Đông Hải Thần Tăng, trụ trì chùa Phổ Đà. Ngay trước ngày cưới, tiểu đệ bỏ trốn nên gia sư mang nhục!

Trịnh Mãng phá lên cười hề hề:

- Chuyện này còn khó tin hơn việc chim vẹt màu đen! Chẳng lẽ cô dâu lại xấu xí như quỷ nên Mộc công tử mới chê!

Kinh Thanh trợn mắt cãi:

- Ngươi tưởng ta thế này nên không lấy được vợ đẹp ư? Người ấy kiều diễm nhất vùng đảo Chu Sơn, nếu đem ra so sánh với Mã Hoàn Cơ hay Tiền Vân Mi thì mỗi người một vẻ, chẳng hề thua sút!

Nam Cung Giao lộ vẻ buồn rầu chứ không cười:

- Trai tài gái sắc! Ta tin rằng ngươi đã nói sự thực! Nhưng việc ngươi đào hôn đã khiến ta nghi ngờ rằng vì luyện Nhuyễn Cốt Thần Công nên cả cái của nợ trong đũng quần kia cũng tiêu rồi!

Nói xong, chàng đưa tay tả định mò vào hạ thể của gã.

Kính Thanh hồn phi phách tán, mang cả ghế lùi nhanh lại, người run lẩy bẩy:

Nam Cung Giao và anh em họ Trịnh ôm bụng cười ngất, thật lâu sau chưa nín nổi!

Kính Thanh hầm hầm nổi giận:

- Nếu đại ca cứ suồng sã như vậy tiểu đệ sẽ trở về Lâm Gia Trang!

Nam Cung Giao cố nín cười, nói rằng:

- Ngu ca xin lỗi! Và hứa từ nay sẽ không trêu ghẹo hiền đệ nữa!

Mộc Kính Thanh xụ mặt xách ghế trở lại bàn, cùng chàng tính toán kế hoạch ngăn cản cuộc xâm lăng An Nam của Minh triều!

Khi nghe Nam Cung Giao đòi giết quan Thái Bảo Liễu Di Phu, Kính Thanh bác ngay:

- Hiện nay, đoàn sứ thần An Nam đang có mặt ở Bắc Kinh, đại ca làm thế là đưa họ vào chỗ chết!

Phe chủ chiến không phải chỉ mình họ Liễu, những đại thần còn lại sẽ đổ vạ lên đầu bọn Lê Khải, mượn cớ này mà xin Minh Đế khởi binh trừng phạt An Nam!

Nam Cung Giao sợ toát mồ hôi, ngập ngừng hỏi lại:

- Thể theo ý hiền đệ thì chúng ta phải hành động ra sao đây?

Kính Thanh tư lự:

- Đại ca phải liên lạc ngay với bọn Lê Khải, báo cho họ biết âm mưu của phe Liễu Di Phu, và yêu cầu họ sớm quay về cố quốc. Họ đi rồi chúng ta mới rảnh tay mà hạ thủ!

Trong thời gian ấy, tiểu đệ và anh em họ Trịnh điều nghiên địa thế tư dinh của Liễu Thái Bảo!

Nam Cung Giao phấn khởi vỗ vai. Cũng may ngươi xem mỹ nhân như cỏ rác nên ta mới có được một quân sư tài giỏi! Thôi đừng cưới vợ làm gì, thanh lâu chỗ nào chẳng có.

Kính Thanh mỉa mai:

- Đi theo đại ca chẳng khác gì theo voi ăn bã mía, xấu hay đẹp thì đại ca cũng hốt sạch, làm gì còn phần cho tiểu đệ nữa?

Nam Cung Giao mỉm cười:

- Ta đã chẳng chừa Lâm Bảo Thoa tiểu thư lại cho ngươi rồi đấy sao? Ta biết ngay ngươi say mê sư muội nên không chịu lấy ai khác!

Thiên Gia Thử Lương Nhẫn quen đám dịch tốt trong dịch xá Bắc Kinh nên chiều hôm sau đã liên lạc được với các sứ thần An Nam.

Gã trở về bẩm báo:

- Bẩm công tử! Chánh sứ Lê Khải kể rằng Minh Đế long thể bất an nên chưa triệu kiến đoàn sứ thần An Nam, chỉ mình Cầm Đạm Thủy cô nương đã vào cung làm đẹp cho thái hậu.

Quan Thái Bảo Liễu Di Phu đã cùng quan Lễ Bộ Thượng Thư đến dịch xá nhận tấu chương và cống phẩm.

Khi nghe Lê Khải báo rằng nửa đường gặp cường đạo, sứ giả Trần Dũng bỏ mình.

Di Phu khéo léo dò hỏi, nhưng Nguyễn Đào đã khôn ngoan đổ hết công trạng cho Trần Dũng và đội quân áp tải chứ không nhắc đến công tử.

Gã thấm giọng bằng một chun rượu đầy, rồi kể tiếp:

- Dường như Liễu Di Phu biết rõ bản lãnh của phe cường đạo nên ánh mắt đầy vẻ nghi hoặc. Cuối cùng, họ Liễu bảo rằng nhân dịp có sứ thần các nước Phù Tang, Cao Ly, Mông Cổ,

Mãn Châu cùng hiện diện, khi Minh Đế khỏi bệnh, lão sẽ tổ chức một cuộc so tài hữu nghị giữa đại biểu các nước về Trung Hoa.

Dũng sĩ thắng trận sẽ phong danh hiệu lưỡng quốc Võ Trạng Nguyên, và nước ấy sẽ được miễn triều cống lần tới.

Nam Cung Giao ngắt lời gã:

- Thế ai sẽ là đại biểu của An Nam?

Lương Nhẫn cười đáp:

- Nay Trần Dũng đã chết, chỉ còn Cầm Đạm Thủy là có kiếm pháp cao cường nhất. Nàng ta sẽ được cử tham gia cuộc tỷ võ!

Mộc Kính Thanh cau mày:

- Không hiểu Liễu Di Phu đang bày độc kế gì? Nhưng chỉ riêng việc Minh Đế cứ liệt giường vài tháng cũng khổ cho chúng ta rồi!

Nam Cung Giao nóng ruột hỏi Thiên Gia Thử:

- Thế ngươi có biết Minh Tông mắc bệnh gì không?

Họ Lương cười hề hề:

- Gã dịch tốt họ Tăng kia có bào muội làm cung nữ! Ả ấy kể rằng long nhan mới được tiến cung một giai nhân tuyệt sắc. Nàng ta tên Đoàn Tự Cơ người đất Vân Nam, mặt đẹp như ngọc, thân hình trắng tựa ngó sen, tỏa mùi hương yêu mị!

Thiên Tử không sao dứt ra nổi suốt ngày quấn quít, bỏ cả việc triều chính. Chỉ sau hai tháng ôm ấp Đoàn Qúi Phi, long thể cạn kiệt nguyên dương, tay chân run rẩy, đi không nổi, thở chẳng ra hơi. Quan thái y đã tận lực chữa trị nhưng không có kết quả!

Nam Cung Giao gật gù:

- Ta có một dược phương bồi bổ nguyên khí, tráng dương, cố thận cực kỳ thần diệu. Nếu có người tiến cử, ta sẽ vào cung trị bệnh cho Minh Đế?

Mộc Kính Thanh nghiệm giọng:

- Đại ca có chắc là sẽ thành công hay không? Quan Thái Y còn phải chịu thua đấy!

Nam Cung Giao cười tinh quái:

- Sao không chắc! Ngươi cứ uống thử vài thang là biết ngay tác dụng! Lúc ấy, ta chỉ sợ ngươi đòi lấy vợ ngay thì nguy to!

Cả bàn cười vang mà Kính Thanh không giận, chỉ hờ hững nói:

- Nếu đúng thế, đại ca hãy trao dược phương cho sứ thần An Nam. Vua Minh thọ Ơn trị bệnh tất chẳng mặt mũi nào chuẩn tấu việc chinh phạt An Nam!

Cao kiến của y được tán thành, nhưng hôm sau Thiên Gia Thử đến trao thư của chánh sứ Lê Khải.

Nam Cung Giao đọc xong thở dài kể:

- Lê Khải bảo rằng mình không tinh thông y thuật, khi vào cung, bị thái y vặn vẹo tất sẽ lòi đuôi chuột. Lão yêu cầu ta hóa trang thành viên Lãnh binh Đặng Quyết, nhập cung để tận tay đối chứng lập phương.

Trịnh Tháo cả cười:

- Phải đấy! Gã họ Đặng kia có dáng vóc và dung mạo hao hao giống công tử! Thuộc hạ chỉ cần hóa trang sơ là chẳng ai phân biệt nổi!

Nam Cung Giao viết thư phúc đáp Lê Khải, đồng thời bảo Lương Nhẫn nhờ gã Dịch tốt họ Tăng bắn tin vào cung cấm.

Cầm Đạm Thủy nhận được lệnh của Lê Chánh Sứ, lập tức thỏ thẻ với Hoàng Thái Hậu:

- Khải tấu lão Phật Gia! Tiện nữ nghe các cung nữ nói với nhau rằng long thể thánh thượng đang bất an, cả thái y cũng bó tay! Tiện nữ xin mạo muội tiến cử một bậc danh y của nước An Nam, hiện đang có mặt trong đoàn sứ thần!

Chỉ mới vài ngày mà nước da của Thái Hậu đã trắng trẻo hơn trước, mất sạch những nốt đồi mồi già nua, nên bà rất tin tưởng và yêu mến ĐạmThủy.

Nghe nàng nói thế, bà phấn khởi phán rằng:

- An Nam quả lắm nhân tài! Ai Gia sẽ hạ chiếu triệu ngay người ấy vào cung! Nếu y cứu được Vương nhi khỏi chứng di tinh quái ác kia, Ai Gia sẽ trọng thưởng!

Sáng hai mươi mốt, viên Thái Giám Tổng Quản Xuân Minh Cung, cùng bốn Tiểu Thái Giám đến dịch xá.

Dịch xá trong cả nước đều thuộc bộ Giá, riêng Đại Dịch Xá ở Bắc Kinh lại do bộ Lễ quản lý, chuyên để tiếp đón các đoàn sứ giả ngoại bang, hoặc các đại thần phương xa hồi kinh.

Người phụ trách Đại Dịch Xá Bắc Kinh là quan Viên Ngoại Lang Bộ Lễ, tên gọi Tạ Phong.

Họ Tạ mau mắn đưa vị Tổng Quản Thái Giám thân tín của Thái Hậu đến dãy phòng của các sứ thần An Nam.

Hoàng Tổng Quản the thé rao:

- Thái Hậu ban thánh chỉ!

Biết trước việc này nên Lê Khải, nguyễn Đào và viên Lãnh binh Đặng Quyết đều đã có mặt. Song chỉ có hai sứ thần ra quì nghe chiếu chỉ, còn Đặng Quyết vẫn ở trong phòng.

Trung Hoa xem trọng đạo hiếu nên ý chỉ của Thái Hậu còn có hiệu lực hơn thánh chỉ của nhà vuạ Tuy nhiên, thường thì các bà già ấy không viết thành chiếu mà lại truyền bá qua miệng của Viên Thái Giám thân tín nhất!

Lần này cũng vậy, Hoàng Tổng Quản cất giọng gà mái chói tai:

- Lão Phật Gia truyền Chánh Sứ thần An Nam Quốc, cử vị thần y Đặng Quyết đến Càn Thanh Cung để trị bệnh cho thánh thượng! Khâm thử!

Lê Khải và Nguyễn Đào khấu đầu:

- Chúng thần tuân chỉ!

Toán Thái Giám trở ra khách sảnh của Dịch xá chờ đợi. Ở đây Đặng Quyết thay áo.

Đặng Quyết thực đang nấp kỹ trong phòng Nguyễn Đào, để Nam Cung Giao thế chỗ!

Giờ đây, chàng trai họ Nam Cung khác hẳn, vì cặp lông mày rậm, hàng râu mép xanh rì và bộ râu quai nón bó cằm rất oai vũ.

Chàng bồi hồi soi bóng trong chiếc gương pha lê Hà Lan, tự nhủ rằng mình đúng là dân Giao Chỉ khi mặc chiếc áo the đen, đầu đội khăn vành rễ!

Chính Lê Khải cũng nói:

- Lạ thực! Trong bộ y phục này, trông công tử chẳng có một nét nào của người Trung Hoa!

Hai khắc sau, chàng đã có mặt ở cung Khôn Ninh, để theo Thái Hậu đến cung Càn Thanh.

Tướng mạo khôi vĩ, oai vệ của Đặng Quyết chẳng hề giống với một thầy lang, khiến bà mẹ vua ngần ngại:

- Này Đặng hiền khanh! Do lời tiến cử của nha đầu Đạm Thủy, nên Ai Gia mới cho gọi khanh đến. Nhưng việc chữa bệnh cho Thánh Thượng là rất quan trọng, liệu khanh có đủ năng lực hay không?

Đặng Quyết mỉm cười, để lộ cái mà gã không có, đó là lúm đồng tiền trên má trái, và vui vẻ đáp:

- Khải tấu Thái hậu! Hạ thần cam đoan rằng chỉ sau bảy ngày, Hoàng thượng sẽ phục hồi như cũ, có thể lâm triều giải quyết chính sự!

Thái Hậu lạnh lùng nói:

- Khanh tự tin như thế khiến Ai Gia cũng yên lòng. Nhưng nếu bệnh tình của Thánh Thượng xấu đi thì không phải chỉ riêng cái đầu của khanh rơi xuống đâu đấy!

Ý bà nói rằng cả đoàn sứ thần An Nam gần hai trăm mạng sẽ phải chết.

Thái Hậu đứng lên, di giá đến cung Càn Thanh, nơi Minh Anh Tông đang dưỡng bệnh.

Trên hành lang trước cửa cung có gần hai chục vị quan lớn đang chầu chực, cứ như sợ rằng mình không hiện diện đúng lúc Thiên Tử băng hà!

Thấy Thái Hậu, họ nhất tề phục xuống lạy.

Nam Cung Giao đi sau bà, khoan khoái nhận đại lễ của họ. Chàng nhận ra Thái Sư Triển Tháo vì gương mặt ông có những nét giống Thất Vương Phi!

Tất nhiên có cả Thái Bảo Liễu Di Phu!

Triển Thái Sư không phải quì, chỉ cúi mình chào, vì ông là thông gia với Thái hậu.

Triển lão rầu rĩ lên tiếng:

- Khải tấu Thái Hậu! Thái y bảo rằng bệnh của Thánh Hoàng mỗi lúc thêm nặng, tuy mạng rồng không đáng ngại, nhưng tinh thần rất suy sụp!

Các đại danh y Đế Đô và miền Hà Bắc này lần lượt bị đức Vạn Tuế đuổi ra, cả Thái y cũng mới bị hạ ngục hồi sáng!

Ông vừa dứt lời thì Liễu Di Phu nói tiếp:

- Khải tấu Thái Hậu! Phải chăng gã An Nam râu rậm kia được mời đến để trị bệnh cho Thánh Hoàng?

Thái Hậu thở dài:

- Đúng vậy! Gã đã đem đầu ra cam đoan rằng sẽ thành công! Ai Gia bắt buộc phải thử xem!

Thái Hậu bước vào Càn Thanh cung.

Đặng Quyết theo sau, nheo mắt cười bảo Triển Thái Sư:

- Đại nhân bị chứng táo bón kinh niên, mỗi ngày phải ăn đủ một cân rau sống, và đi bộ mười dặm thì sẽ thấy khá hơn!

Triển Thái Sư ngơ ngác nhìn theo gã thầy lang An Nam, rồi nói với các quan:

- Gã này đáng mặt thần y, chỉ nhìn qua đã biết rõ bệnh kín của lão phu.

Liễu Di Phu hận hực:

- Hay ho gì gã! Chẳng qua mặt của lão Thái Sư nhăn nhó, nặng nề, ai nhìn không đoán được! Như tiểu đệ đây trĩ lòi cả gang, sao y không giỏi mà nói ra đi!

Các quan che miệng cười, định bụng sẽ về kể cho vợ nghe bí mật của hai vị quan đầu triều.

Quả thực là Nam Cung Giao chỉ lòe thiên hạ, bệnh táo bón của Triển Thái Sư là do Thất Vương Gia tiết lộ với chàng!

Trong tẩm cung chỉ có mình nhà vua và Đoàn Qúi Phi.

Mỹ nhân đang ngồi bóp chân cho Thiên Tử, mặt hoa ủ dột, đầy vẻ u sầu lo lắng. Nàng sợ Minh Đế băng hà, và khi đó, nàng sẽ không thoát chết dưới tay Hoàng Hậu!

Đoàn Qúi Phi sẽ bị khép tội dùng sắc mê hoặc Quân Vương, khiến long thể hao mòn nguyên khí dẫn đến tử vong!

Tuy chưa nói ra nhưng mỗi lần đến thăm Thiên Tử, ánh mắt Hoàng Hậu đã biểu lộ lòng căm hờn tột độ!

Nàng oán hận trời xanh đã ban cho nàng nhan sắc phi phàm và một thân thể nồng nàn mùi hương quyến rũ. Dù nàng không muốn, song Minh Đế đã vì hai điều ấy mà mê mệt, miệt mài truy hoan, đưa đến hậu quả hôm nay!

Nhận ra Thái Hậu giá lâm, Đoàn Qúi Phi vội rời long sàng, phục xuống lạy:

- Tây Cung Qúi Phi khấu kiến Thái Hậu!

Thái Hậu nói với giọng lạnh như băng:

- Miễn lễ!

Rồi bà bước đến cạnh giường, lay gọi Minh Anh Tông:

- Vương nhi! Ai Gia đưa thần y đến trị bệnh cho ngươi đây!

Nhà vua mở mắt, buồn rầu nói:

- Thần nhi chẳng còn thiết sống nữa! Mẫu hậu bất tất phải bận tâm!

Nói xong, Minh Đế nhắm mắt lại quay vào trong.

Thái Hậu chán nản thở dài, bảo Nam Cung Giao:

- Thánh Hoàng đã đánh mất chí cầu sinh, còn thuốc nào cứu chữa nổi nữa. Ai Gia chẳng nhẫn tâm nhìn cảnh này, giao lại cho ngươi đấy!

Bà nghẹn ngào quay bước, rời khỏi phòng.

Nam Cung Giao chờ bà đi khuất, tủm tỉm nói với Đoàn Qúi Phi:

- Hạ thần là người nước An Nam, quen tính trực ngôn, xin thành thật chia buồn với Qúi Nhân. Nay Thánh Hoàng đã không còn khát sống thì sinh mạng của Qúi Nhân cũng sắp kết thúc! Thật uổng thay cho một bậc mỹ nhân sắc nước hương trời!

Đoàn Tự Cơ thẹn thùng bởi ánh mắt nồng nàn của chàng trai lạ, lòng sung sướng vì được ngợi khen, song nàng vẫn giả đò nghiêm nghị, gắt gỏng:

- Sao khanh lại dám nói những lời phạm thượng như thế?

Nam Cung Giao thản nhiên đáp:

- Hạ thần chỉ nói ra sự thực. Sao gọi là phạm thượng? Bốn năm trước, Tiên Hoàng của tệ quốc băng hà, Hoàng Hậu lập tức khép tội nàng Ái Phi được sủng ái nhất, bắt phải thắt cổ chết!

Đoàn Qúi Phi bàng hoàng, run giọng:

- Thực thế sao? Ta từ nhỏ nghe đến điều ấy, nhưng đã quyết chết theo Thánh thượng nên không hề sợ!

Nam Cung Giao mỉm cười:

- Tối độc phụ nhân tâm! Nàng ái phi kia đã không được chôn gần mộ của Lê Thái Tổ, và cũng chẳng ai biết xác nàng ta bị ném xuống sông cho cá rỉa hay quăng vào rừng cho chó gặm!

Dẫu nàng ấy có gặp Lê Thái Tổ dưới hoàng tuyền chắc cũng bị chê!

Đoàn Qúi Phi sợ hãi rú lên:

- Ngươi đừng dọa ta!

Minh Anh Tông chịu hết nổi, cố lấy hơi mà quát:

- Tên cuồng đồ kia! Ngươi có bao nhiêu cái đầu mà dám khi quân? Trẫm còn sống mà?

Nam Cung Giao vui vẻ quay lại:

- Thánh Thượng giết hạ thần rồi thì lấy ai trị bệnh? Sao ngài không cố sống mà bảo vệ cho người mình yêu dấu!

Minh Đế thở dài:

- Sống mà thế này thì thà chết còn hơn!

Nam Cung Giao nghiêm giọng:

- Hạ thần đã đem gần hai trăm cái đầu của đoàn sứ thần An Nam để bảo chứng, tất không thể thất bại được. Chỉ cần Thánh thượng tuyệt đối tin tưởng hạ thần là đủ!

Cách sử sự kỳ lạ và thái độ tự tin của chàng đã khiến nhà vua tò mò! Chàng khác hẳn những vị đại phu già nua, khiếp nhược từng đến đây!

Minh Anh Tông cau mày hỏi:

- Cách điều trị của khanh thế nào?

Nam Cung Giao đáp:

- Mỗi ngày một thang, sau bẩy ngày hồi phục như xưa. Nếu tiếp tục dùng dược phương này thường xuyên, đến tuổi tám mươi vẫn cường tráng! Nhưng từ nay trở đi mỗi đêm thánh thượng chỉ được phép ngự hoan một lần!

Long nhan mừng rỡ ngắt lời:

- Thế là tốt lắm rồi! Khanh hãy mau ra tay diệu thủ! Cạnh đây có cả một kho thuốc, nếu thiếu gì, hiền khanh cứ bảo Tổng Quản Thái Giám Càn Thanh Cung là Dịch Qúi cung cấp! À! Danh tính của khanh là gì?

- Khải tấu thánh thượng! Hạ thần là Đặng Quyết!

Nhà vua bảo Đoàn Qúi Phi:

- Ái khanh ra gọi Dịch Tổng Quản vào đây.

Lát sau, họ Dịch phục phịch bước vào lắng nghe thánh ý!

Lão cung kính hỏi Nam Cung Giao:

- Chẳng hay Đặng thần y cần sai phái điều gì?

Chàng cười đáp:

- Phiền Tổng Quản tìm cho tại hạ bẩy con chó mực mới sinh chưa đầy mười ngày! Phải là chó mực chính gốc, và toàn là giống đực!

Minh Đế rụng rời lẩm bẩm:

- Chăng lẽ Trẫm phải ăn cả chó nữa sao?

Nhưng chỉ sau ba ngày long nhan đã thấy diệu dụng của món Hắc Cẩu Bát Bửu Thần Phương.

Sau mỗi lần uống thuốc, nhà vua được Nam Cung Giao dùng nội công xoa bóp toàn thân, khiến dược vị tan nhanh. Người khoan khoái chìm vào giấc ngủ, để khi tỉnh dậy thấy mình khoẻ hơn!

Trong tẩm cung vẫn chỉ có ba người, không cung nữ lẫn thái giám thêm Dịch Tổng Quản chạy ra chạy vào chờ sai khiến!

Trước đây trong lúc tuyệt vọng, Minh Đế đã đuổi hết tả hữu, chỉ để mình Đoàn Qúi Phi hầu hạ mình. Cả Hoàng Hậu cùng các Hoàng Tử, Công Chúa cũng bị cấm cửa!

Sáng sáng, họ và bá quan đến cửa cung Càn Thanh quì lạy, nói lời vấn an chứ không dám vào.

Cơm nước được Dịch Tổng Quản bưng vào tận giường ngự, và Đặng Quyết được phép ăn chung với nhà vua cùng Đoàn Qúi Phi!

Những lúc không ngủ, Minh Anh Tông vui vẻ chuyện trò với Đặng Quyết hỏi thăm về gia cảnh của gã, cũng như văn vật đất An Nam.

Đặng Quyết trả lời rất mơ hồ, chung chung, thường nói lảng sang đề tài khác.

Minh đế không biết là đối phương cũng dốt đặc về đất Giao Châu như mình, lại tưởng Đặng Quyết muốn giữ bí mật cho quốc gia!

Đến ngày thứ năm thì Minh đế phát hiện Long Thương của mình ngạo nghễ dựng đứng hàng nửa canh giờ mới chịu hạ, liền hoan hỉ phán:

- Đặng hiền khanh! Nay khanh không chịu nhận chức Thái y của Minh triều. Trẫm cũng chẳng dám ép. Nhưng công lao hạng mã này không thể không thưởng. Vậy khanh cứ nói ra ý mình, trẫm sẽ chuẩn tấu.

Nam Cung Giao cười đáp:

- Hạ thần chỉ xin hai điều, một cho tổ quốc và một cho mình!

Minh đế gật đầu:

- Khanh cứ tấu!

Nam Cung Giao nghiêm giọng:

- Thứ nhất, hạ thần tha thiết cầu xin thánh thượng đừng bao giờ nghe lời xúc xiểm của ai mà hạ chỉ chinh phạt nước An Nam.

Minh Anh Tông mỉm cười:

- Trẫm hứa! Nhưng thực ra sau việc này, trẫm làm sao dám nghĩ đến chuyện khởi binh? Còn điều thứ hai?

Nam Cung Giao tủm tỉm cười:

- Hạ thần muốn có một tấm miễn Tử Kim Bài!

Minh Đế kinh ngạc:

- Vật ấy nào có ích gì khi khanh đã trở về An Nam?

Nam Cung Giao ung dung đáp:

- Khải tấu thánh thượng! Người Giao Châu có câu tục ngữ: Vuốt mặt nể mũi.

Hạ thần mà có được Kim Bài của Thánh thượng thì vua An Nam cũng không dám trị tội!

Minh Đế cười khanh khách:

- Hiền khanh nói cũng hữu lý! Nếu An Nam quốc vương giết khanh là không nể mặt nước Trung Hoa. Trẫm chuẩn tấu!

Minh Anh Tông đã giữ lời, suốt đời không gây hấn với An Nam!

Các triều vua Minh sau này cũng hành động như vậy, cho đến lúc cơ đồ lọt vào tay quân Mãn Thanh! Có thể vì di chiếu của Anh Tông, hoặc vì phải đối phó với rợ Mông, rợ Mãn nên họ không rảnh tay?

Tối hôm ấy, uống xong chén thuốc thơm mùi thịt chó, Minh Anh Tông lại được Nam Cung Giao xoa bóp, khoan khoái chìm vào giấc mộng.

Nhà vua tuyệt đối tin yêu Đoàn Tự Cơ và Nam Cung Giao nên không hề cảnh giác. Ngài chẳng biết rằng hai con tim son trẻ kia đã rung động, dù chỉ gần gũi nhau có mấy ngày!

Thấy nhà vua đã ngủ say, Nam Cung Giao đi sang phòng bên để nghỉ ngơi. Chàng nằm ngữa trên giường, nhìn qua song cửa, ngắm sao trời mà nhớ về cố quận, song hình bóng người thân cứ hòa lẫn với dung nhan xinh đẹp tuyệt trần của Đoàn Qúi Phi!

Với bản tính ngang tàng, phóng khoáng, chàng tự cho phép mình chiêm ngưỡng người đàn bà mười chín tuổi kỳ lạ kia. Những lúc long nhan ngủ vùi, chàng ngồi ngắm nàng không nhớp mắt.

Đoàn Tự Cơ chằng hề giận, chỉ thẹn thùng cúi mặt và liếc trả bằng ánh mắt trách móc.

Nam Cung Giao trằn trọc đến cuối canh ba, mệt mỏi ngủ thiếp đi.

Chàng đã mơ thấy mình được ôm ấp thân hình ngà ngọc thơm tho của Đoàn Qúi Phi, ngay trên long sàng, cạnh thân hình bất động của Minh Anh Tông.

Chàng kinh hãi giật mình tỉnh giấc, phát hiện Tự Cơ đang đứng bên giường, tóc dài buông xoã, áo ngủ trắng mỏng manh.

Qúi Phi mỉm cười, ngồi xuống cạnh giường rồi ngã người áp má lên bờ ngực trần rộng và vạm vỡ của chàng.

Tim Nam Cung Giao rộn ràng đập nhanh vì hồi hộp và sợ hãi.

Tự Cơ thì thầm:

- Chàng đừng lo! Thiếp đã gài chặt cửa và điểm huyệt mê của Thiên Tử rồi!

Nam Cung Giao thở dài:

- Té ra Qúi Phi là một cao thủ võ lâm, thế mà tại hạ nhìn không ra!

Đoàn Tự Cơ cười khúc khích:

- Thiếp cũng chẳng nhìn ra việc chàng có phải là người Giao Chỉ không? Nghe chàng ấp úng trả lời nhà vuạ Thiếp phải cố nín cười! Hơn nữa, răng chàng đâu có nhuộm đen?

Khi mỹ nhân cười, thân hình rung động khiến Nam Cung Giao cảm nhận được rõ ràng sự tiếp xúc với gò nhũ phong nẩy nở của nàng.

Mùi hương kỳ lạ kia ngày càng dìu chàng vào trạng thái lâng lâng và đầy khát vọng.

Tuy nhiên, việc Tự Cơ giỏi võ đã khiến lòng chàng cảnh giác, lo lắng, nên đã trấn áp được lửa dục.

Nam Cung Giao bình tĩnh đáp:

- Qúi Phi lầm rồi! Tại hạ là người Giao Chỉ chính gốc, có hai ngón chân cái rất đặc biệt.

Tự Cơ hiếu kỳ ngồi bật dậy, nhìn hai bàn chân chàng, và thích thú sờ nắn. Nhưng rồi nàng lại trở về với tư thế cũ, hạ giọng kể lể:

- Thiếp vốn là hậu duệ của Hoàng Gia họ Đoàn nước Đại Lý ở đất Vân Nam. Vì muốn khôi phục lại nước cũ thiếp đã tự nguyện tiến cung, mong có ngày lên ngôi Hoàng Hậu, xin Thiên Tử ban cho thành Đại Lý để dựng nước!

Nam Cung Giao cảm động nói:

- Không ngờ nàng lại ôm ấp một ý nguyện cao cả như vậy! Song tại hạ sợ rằng nàng sẽ khó mà toại ý!

Đoàn Tự Cơ thở dài não ruột:

- Thiếp cũng biết là vô vọng, nhưng nếu may mắn sinh được Hoàng Nam thì vẫn còn có cơ hội? Xưa nay, việc phế trưởng lập thứ là chuyện thường tình!

Chợt nàng nghiêm giọng:

- Thiếp hỏi thực! Phải chăng sau lần lâm trọng bệnh này, Minh đế sẽ khó mà có con được nữa?

Nam Cung Giao gật đầu:

- Có lẽ vậy! Linh dược chỉ bồi bổ khí huyết, gân cốt, song tính nguyên nhà vua đã kém lắm rồi. Vả lại, ông ta đã quá tuổi bốn mươi!

Đoàn Tự Cơ ngồi lên nhìn thẳng vào mắt chàng, ai oán nói:

- Vậy thì chàng hãy ban cho thiếp một đứa con! Và nếu giấc mộng của thiếp được trọn vẹn thì con của chúng ta sẽ làm Hoàng Đế Trung Hoa, lúc ấy, cảnh chiến tranh tang tóc giữa hai nước sẽ không bao giờ xảy ra!

Nam Cung Giao choáng váng vì ý nghĩ táo bạo và tuyệt diệu của Tự Cơ, liền tự nhủ:

- Ý nàng chẳng phải là dở! Ta đã hằng mong muốn sự hòa hiếu giữa hai dân tộc cơ mà?

Chàng nghe lòng thanh thản, mỉm cười tình tứ:

- Hay lắm! Ta sẽ cố noi theo gương Lã Bất Vi vậy!

Không còn rào cản, Nam Cung Giao say đắm vuốt ve thân hình tuyệt mỹ của Tự Cợ Chàng hít mãi mùi hương kỳ diệu trên da thịt nàng, và bộ râu rậm đã khiến mỹ nhân nhột nhạt, rùng mình cười rúc rích.

Cũng như Minh Anh Tông, Nam Cung Giao mê muội trong những giấc vu sơn liên tiếp, không sao dứt ra được.

Người đàn bà kỳ lạ này quyến rũ tựa ngọn lửa rực rỡ, biến kẻ quân tử thành những con thiêu thân, tình nguyện được chết trong vòng tay nàng!

Cuối canh tư, Tự Cơ nũng nịu xô tình lang ra, lặng lẽ trở về tẩm phòng với Long Nhan, còn Nam Cung Giao lăn ra ngủ như chết!

Cuộc tình vụng trộm nồng nàn, pha chút ảo vọng tương lai khiến Nam Cung Giao kéo dài việc chữa trị cho Minh Đế.

Nhà vua lại càng yên tâm và cảm kích sự chu đáo, kiên nhẫn của vị đại phu nước An Nam!

Ông không biết rằng mình bị cắm sừng bởi hai con người đang nuôi mộng thay đổi huyết thống họ Chu.

Sau chín dêm ân ái mặn nồng, Tự Cơ sung sướng báo tin:

- Đặng tướng công! Thiếp đã trễ kinh được bốn ngày, chắc là đã cấn thai.

Nam Cung Giao liền thăm mạch thật kỹ, mỉm cười xác nhận!

Tự Cơ hạnh phúc ngồi vào lòng chàng thủ thỉ:

- Lúc này thiếp lại muốn quên đi giấc mơ phục quốc, trốn theo chàng về An Nam sinh sống.

Hạnh phúc của nữ nhân là được sống với người mình yêu thương!

Nam Cung Giao hôn nàng rồi buồn rầu nói:

- Ta cũng không muốn xa nàng, nhưng việc này sẽ gây hậu quả rất lớn, đó là chiến tranh giữa hai nước!

Tự Cơ cũng hiểu điều ấy, dụi đầu vào ngực chàng mà nấc nhẹ.

Nam Cung Giao vỗ về bờ vai nhỏ, dặn dò:

- Nếu nàng sanh con trai tất phải nỗ lực tranh giành ngôi Đông Cung Thái Tử clto nó! Khi tự lượng không kham nổi cuộc chiến khốc liệt ấy thì đừng miễn cưỡng mà uổng mạng! Còn như tình hình quá nguy ngập, nàng hãy rời bỏ hoàng cung, đến Cảnh Đức trấn ở đất Giang Tây chung sống với ta!

Đoàn Tự Cơ ngơ ngác:

- Chẳng lẽ chàng không về An Nam?

Chàng nghiêm nghị đáp:

- Nay chúng ta đã yêu nhau say đắm, tình thân như phu phụ, ta cũng chẳng giấu giếm nữa. Ta không phải là Đặng Quyết, mà là Nam Cung Giao, có cha người Hán, mẹ người Giao Chỉ. Ta sinh trưởng trên đất Trung Hoa này, nhưng lòng vẫn thương quê mẹ nên giúp đỡ đoàn sứ thần An Nam!

Tự Cơ tròn mắt kinh ngạc, lát sau cười hỏi:

- Phải chăng chàng đã hóa trang? Thiếp muốn được thấy chân diện mục!

Nam Cung Giao cẩn thận gỡ râu và cặp lông mày giả, để lộ dung mạo anh tuấn, hiền lành. Tất nhiên là đẹp hơn Đặng Quyết.

Tự Cơ nhìn đắm đuối rồi thờ thẫn nói:

- Thiếp sẽ ghi nhớ suốt đời gương mặt của chàng!

Đêm ấy, Nam Cung Giao không hóa trang, cùng Tự Co ái ân đến sáng.

Trong cơn hoan lạc, nước mắt chia ly đầm đìa gối phượng!

Sáng mùng sáu tháng sáu, Minh Đế lâm triều, mặt hồng hào, tươi tỉnh, giọng rồng oang oang.

Trước hết, ngài tuyên dương công trạng của Đặng Quyết và tuyên cáo luôn hai yêu cầu của họ Đặng!

Liễu Thái Bảo và một số đại thần thuộc phe chủ chiến tái mặt, cố giấu tiếng thở dài.

Họ Liễu cũng không dám mở miệng xin vua cho phép tổ chức cuộc so tài giữa các đoàn sứ thần nữa.

Ngay trưa hôm ấy, đoàn sứ thần giả An Nam lên đường về nước, mang theo rất nhiều tặng phẩm của Minh Anh Tông!

 

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Nhấn vào giữa màn hình để hiển thị Tùy chọn đọc.
Theo dõi Đọc Sách Hay trên Facebook, mỗi ngày chúng tôi cập nhật những cuốn sách, truyện hay nhất!

Có thể bạn thích