Trong khoảng thời gian đó, Roy và Jock run cầm cập trong sảnh ngôi nhà thờ cháy dở vẫn chưa sập hẳn.

“Kẻ quái quỷ nào vậy?” Jock hỏi.

“Điều đó thì có gì quan trọng chứ” Roy đáp. “Cái chính là hắn ở đó, đợi chúng ta.”

“Sớm muộn gì chắc chắn họ cũng sẽ đặt người canh gác. Mày nghe người ta kháo nhau chưa: Con trai ông chủ thái ấp đang bàn chuyện tìm chó săn.”

“Chó thì dễ đánh bả thôi,” Roy nói.

“Thằng cha chết giẫm, bất kể hắn là ai,” Jock nói. “Tao suýt thì đái cả ra quần.”

Khuôn mặt trắng bệch chằm chằm nhìn ra từ chòi canh cũng khiến Roy sợ khiếp vía. Nếu dừng lại suy nghĩ, hắn sẽ biết đó là một con người. Nhưng ai có thể dừng lại vào những thời điểm như thế cơ chứ? Chúng vứt cuốc xẻng chạy thục mạng.

Jock không vứt đèn lồng nhưng cũng không dừng lại để thổi tắt lửa, và cái thứ đó - không, đó không phải thử gì cả, mà là một người - đã đuổi theo chúng tới nửa đường trước khi Roy chộp lấy cái đèn lồng từ tay thằng em trai ngu độn.

Giờ chúng đang ở trong nhà thờ ẩm ướt. Không có lửa và không có cách nào để đánh lửa.

Tuy nhiên, như thế lại có nhiều thời gian để nghĩ. Giữa đêm, trong mưa, tòa lâu đài cổ trên ngọn đồi là một khối đen sừng sững in hình lên bầu trời cũng tối sẫm như thế. Roy nhìn lên nó và suy nghĩ.

Hắn không biết bao nhiêu lâu đã trôi qua trước khi Jock cất tiếng, “Ngớt mưa rồi.”

Nhưng chừng ấy thời gian là đủ. “Chúng đang theo dõi chúng ta ở bên ngoài,” Roy nói khi bọn chúng rời khỏi nhà thờ. “Thế thì chúng ta sẽ tìm người theo dõi từ bên trong.”

“Sẽ chẳng ai chịu làm thế cả.”

Không ai thích bọn chúng. Điều đó phù hợp với Roy. Hắn cũng chẳng ưa ai hết.

“Họ sẽ không muốn làm chuyện đó, không đâu,” Roy thừa nhận. “Nhưng ta nghĩ được một người mà chúng ta có thể bắt hắn phải làm.”

Đầu buổi chiều

Thứ Tư ngày 20 tháng Mười

“Bà biết phải làm gì ư?” Olivia hỏi.

Quý bà Cooper khẽ chỉnh mũ cho ngay ngắn. “Đúng thế.”

“Chẳng có gì đơn giản hơn,” Quý bà Withcote hùa vào.

Ba người phụ nữ đứng gần lối vào đại sảnh. Họ đang chờ xe ngựa đến đưa hai quý bà đi Edinburgh.

Nhiệm vụ của họ là đi tìm y tá và người hầu của Frederick Dalmay để khai thác thông tin.

“Cháu hy vọng hai bà sẽ không thấy việc này quá chán,” Olivia nói. “Có lẽ nó hơi giống mò kim đáy bể.”

“Ồ, ta chẳng nghĩ vậy đâu,” Quý bà Cooper nói. “Chúng ta biết tên bọn họ. Chúng ta sẽ tìm thấy họ dễ dàng thôi.”

“Và một khi đã tìm thấy họ, ta dám chắc chẳng khó gì để yêu cầu họ nói ra,” Quý bà Withcote nói.

“Khi mọi kế sách đều thất bại thì đút lót luôn là chiến thuật hay,” Quý bà Cooper nói thêm.

Một cậu đầy tớ từ bên ngoài bước vào. “Xe ngựa đã đến, thưa các quý bà.”

Mấy phút sau khi các quý bà khởi hành, Lisle bước vào.

“Họ bảo đi Edinburgh,” chàng nói. “Để tìm manh mối.”

Từ đêm qua tới giờ Olivia mới gặp lại chàng. Nàng đã trằn trọc mãi mới ngủ được. Kết quả là nàng xuống ăn sáng rất muộn. Hai quý bà đang ở đó dùng điểm tâm nhưng chàng thì không. Chàng đã ra ngoài cùng nhân công, Herrick nói vậy.

Nàng đã quyết định sẽ xử sự như thể không có chuyện bất thường gì xảy ra. Mọi chuyện dễ hơn nàng tưởng. Chàng vẫn là Lisle, và dưới ánh sáng ban ngày thì chuyện họ làm đêm qua có vẻ như là chuyện tự nhiên nhất trên đời.

Bởi vì nàng yêu chàng và có lẽ đã luôn yêu chàng. Tình yêu ấy mang nhiều biến thể trong những năm tháng qua, nhưng nó luôn ở đó.

Và giờ chàng đang ở kia, tay đang cầm... Cái xẻng.

“Ngài mang xẻng vào trong nhà vì lý do bí hiểm nào đó, hay ngài quên nó lại ngoài sân vậy?” nàng hỏi.

Chàng đang cau mày nhìn bàn tay nàng. Chàng nhìn lên. “Gì cơ?”

“Cái xẻng.”

“À. Phải. Cái này.” Chàng nhìn vào nó. “Sáng nay, một công nhân tìm thấy khi tới đây làm. Một cái xẻng. Một cái cuốc.”

“Bằng chứng,” nàng nói.

“Ta không cần bằng chứng,” chàng nói. “Ta tin em. Nhưng ta không hình dung ra mọi chuyện một cách hợp lý. Em đã dọa chúng sợ khiếp vía.” Chàng cười rạng rỡ. “Chúng vứt bỏ mọi thứ để thoát thân.”

“Mọi thứ ngoại trừ cái đèn lồng.” Nếu chúng vứt đèn lồng, nàng đã không thể chạy theo... Và chuyện xảy ra sau đó đã không xảy ra.

“Nhưng ta cũng không định mang nó vào nhà đâu,” chàng nói. “Ta thấy các quý bà đi rồi nên vào hỏi em về nó, ta quên mất không bỏ cái xẻng bên ngoài.”

Chàng nhìn quanh. Herrick xuất hiện. “Vâng, thưa ngài. Joseph sẽ mang thứ này đi cho ngài.” Một người giúp việc vội vã đi lại cầm lấy cái xẻng rồi đi ra ngoài.

Herrick biến mất.

“Hôm nay ta không còn là mình nữa,” Lisle hạ thấp giọng. “Chẳng hiểu tại sao.”

Ngọn lửa tí tách trong lò sưởi. Người hầu đi qua đi lại, kín đáo làm việc của mình. Ánh sáng xam xám tràn qua những hộc cửa sổ sâu, làm giảm bớt vẻ u tối của căn phòng rộng mênh mông, nhưng không đủ chiếu sáng nơi này. Một chúc đài đặt trên bàn. Theo đồng hồ thì lúc này là ban ngày, nhưng với thời tiết Scotland thì chẳng khác gì chạng vạng.

Bầu không khí giữa họ thật êm đềm.

“Những giấc mơ kỳ lạ, có lẽ thế,” nàng nói.

“Phải.” Chàng lại nhìn xuống bàn tay nàng. “Dù sao, ta đã giúp em.”

“Giúp gì cơ?” nàng hỏi.

“Ta đã giúp em tìm ra manh mối,” chàng nói.

Cách nàng nhìn chàng khi chàng bước vào.

Nhưng đó cũng là ánh mắt nàng đã nhìn chàng khi chàng tìm thấy nàng trong phòng sinh hoạt đêm qua.

Khi ấy chàng có thấy những thế giới trong đôi mắt xanh ấy không?

Chàng đã thấy một điều gì đó, và nó đã khiến chàng dừng bước trên hành trình của mình.

Em si mê anh. Em đã và sẽ luôn si mê anh.

Điều đó có nghĩa là gì, điều đó có nghĩa là gì?

Chàng nói, “Ta đã sai khi gạt bỏ manh mối của em. Ta đã sai về chuyện những con ma khiêu chiến. Giá mà ta ngừng lại một phút để suy nghĩ... nhưng giờ thì đã quá rõ tại sao ta không làm thế. Sự thật là, ta sai. Sự thật là, nhân công không cần ta trông coi thường xuyên. Sự thật là, chúng ta cần phải dừng bọn ma quỷ lại. Hiện nay, kế hoạch của em là một kế hoạch hoàn hảo. Hẳn bọn ma có những lý do chính đáng để tin rằng chúng sẽ tìm thấy một kho báu ở đây, điều mà chẳng ai khác chúng tin. Hoặc là chúng quá điên hay quá ngu, hoặc là có gì đó khiến chúng mê muội... hoặc là nó thực sự tồn tại.”

Nàng chống hai tay lên hông. Nàng đeo rất ít trang sức. Chỉ một cái lắc đơn giản. Một cái nhẫn, cái nhẫn ấy.

“Cảm ơn ngài,” nàng nói.

Chàng nhìn chằm chằm vào chiếc nhẫn. Chàng liếc quanh, không có người hầu nào đứng gần. “Đó là lý do tại sao ta còn thức khi em trở về đêm hôm qua,” chàng nói khẽ. “Tờ giấy em tìm được khiến tâm trí ta rối bời. Nó không cho ta ngủ. Ta tỉnh dậy để xem có thể làm gì với nó. Ta có mấy ý tưởng, nhưng khi ấy ta đang vật lộn với ký ức. Giờ ta muốn xem lại nó một chút.”

“Nó ở trong phòng lưu trữ tài liệu,” nàng nói.

Lisle đã rất ngạc nhiên khi khám phá ra vẻ bề ngoài đơn giản của tòa lâu đài ẩn giấu một kiến trúc bên trong hết sức phức tạp. Tầng lửng Olivia dùng làm phòng lưu trữ tài liệu của họ nằm giữa sảnh gian bếp tầng một với một góc thụt vào của phòng sinh hoạt ở tầng hai. Cửa sổ của nó nhìn ra khoảng trống giữa tháp Bắc và tháp Nam.

Con đường thẳng tới đó là leo lên cầu thang của tháp Nam. Một lối khác là đi lên gác trưng bày rồi đi xuyên qua cánh cửa dẫn vào tháp Bắc. Sau đó rẽ trái vào một hành lang ngắn, qua cánh cửa dẫn vào chỗ ở của Herrick, rồi lên một cầu thang ngắn. Căn phòng rộng và thoáng hơn sảnh bếp phía dưới, bởi vì hộc cửa sổ không rộng bằng. Tuy vậy không thể gọi là sáng sủa trong một ngày xám xịt thế này.

“Thế nào?” nàng nói.

Chàng nhìn quanh. “Lần cuối cùng ta vào đây, nó lộn xộn đầy hộp và sách vở.”

“Herrick làm đấy,” nàng nói. “Ông ấy sai công nhân lắp giá sách và đặt tủ.”

Giờ mọi thứ đã đâu vào đó, được đánh dấu cẩn thận.

Chàng không có gì phải ngạc nhiên. Chàng đã thấy cách nàng sắp đặt nhân công. Tuy nhiên, mọi thứ vẫn rối bời. Trên rất nhiều phương diện, nàng quá hỗn loạn.

Nhưng không, nói thế không đúng lắm. Nàng cũng rất tính toán. Nhiều khi cực kỳ tàn nhẫn.

Có lẽ nàng có vẻ hỗn loạn chỉ bởi vì nàng có những quy luật của riêng mình.

“Đồ đạc lấy từ phòng làm việc của ông Frederick,” nàng nói.

Cũng chẳng có gì nhiều. Một cái bàn nhỏ bằng phẳng có ngăn kéo đặt ở hộc cửa sổ. Một hộp đựng bút kiểu cổ đặt trên bàn. Một cái ghế thô kệch phải nặng cả tấn chứ không ít.

“Nó trông như thứ Tiến sĩ Johnson ngồi lên để viết cuốn từ điển,” chàng nói, “nếu ông ấy viết trên cái bàn của ông nội ông ấy.”

“Frederick Dalmay không phải là một người ưa thời trang,” Olivia nói. “Hầu như mọi đồ đạc của cụ đều quá cũ và xấu, em đã để chúng lại Edinburgh. Mains đang chờ ý kiến của ngài xem nên bán hay cho chúng đi. Nhưng em nghĩ chúng ta vẫn nên có một vài thứ của ông chú ngài ở đây. Ông cụ đã sống ở lâu đài này rất lâu và rất yêu nó. Em nghĩ những thứ đồ đạc ấy khá hợp với nơi này.”

“Trông tuyệt lắm,” chàng nói.

“Đặt chúng ở đây hợp hơn ở bất cứ nơi nào khác,” nàng nói. “Herrick đã chuyển sổ sách gần đây vào phòng làm việc của ông ấy. Vì mọi tài liệu của ông chú ngài đều viết về lịch sử lâu đài, có lẽ sẽ hợp lý khi xem giấy tờ sách vở ấy như giấy tờ nhà đất hoặc văn bản lưu trữ và giữ chúng ở đây với những tài liệu về tài sản khác và những thứ tương tự.”

Nàng lấy một cuốn sách từ trên giá. “Em đặt tờ giấy bí mật ấy vào lại cuốn sách nơi em đã tìm thấy nó,” nàng nói, “phòng khi có một chìa khóa giải mã trong chính cuốn sách này. Em không thể tìm ra mối liên hệ, nhưng biết đâu ngài có thể. Em nghĩ dù ai đặt tờ giấy vào đó, chắc hẳn họ đã không làm thế một cách ngẫu nhiên.”

Nàng mở sách ra tới trang kẹp tờ giấy kỳ lạ rồi đưa cuốn sách cho chàng.

Chàng lấy tờ giấy ra và đọc lướt hai trang sách kẹp nó.

“Một câu chuyện ma,” nàng nói. “Câu chuyện kể về một tù nhân. Em nghĩ hẳn phải có mối liên hệ.”

“Có thể.”

Nàng xích lại gần và nhìn vào tờ giấy chàng cầm. Chàng có thể ngửi thấy mùi tóc và da nàng cùng hương nước hoa thoang thoảng lửng lơ trong không khí quanh nàng.

“Ta nhớ nó rõ hơn ta tưởng,” chàng nói. “Cũng đường kẻ ô nguệch ngoạc ấy và những biểu tượng nhỏ xíu lộn xộn trong một số ô hình chữ nhật.”

“Em biết nó có thể là một câu đố,” nàng nói. “Hoặc một trò chơi. Nhưng em không thể từ bỏ ý nghĩ rằng còn gì đó hơn thế.”

“Đó chính là điều khiến ta thức giấc,” chàng nói. “Cảm giác còn điều gì đó khác hơn những gì ta nhìn thấy.”

“Em không giỏi những thứ này lắm,” nàng nói. “Giải mã cần logic, mà em thì đâu có logic.”

“Em không cần phải có,” chàng nói. “Ta đủ logic cho cả hai.”

“Rất giống như một đửa trẻ cố gắng vẽ lâu đài này,” nàng nói. “Viễn cảnh thì phẳng dẹt. Kích thước thì kỳ lạ.”

“Về cơ bản đó là lối vẽ của người Ai Cập,” chàng nói. “Hãy xem những bức tranh tường. Kích cỡ không cân xứng. Kích cỡ chỉ ra tầm quan trọng. Khuôn mặt nhìn nghiêng, nhưng một con mắt lại nhìn thẳng ra từ...” Chàng ngừng lời, chuyển sự chú ý từ tờ giấy sang căn phòng xung quanh chàng. “Bức tường,” chàng nói. “Chúng ta đang nhìn vào một bức tường.”

Nàng nhìn theo ánh mắt chàng. “Bửc tường? Nhưng như thế lại rất trực diện.”

“Bản đồ cũng thường trực diện.” Chàng nhìn chằm chằm vào những biểu tượng nhỏ xíu. “Lẽ ra ta nên mang theo kính lúp.”

Nàng mở hộp bút lấy ra một cái kính lúp. “Em cần đọc những chữ viết tay của ông Frederick,” nàng nói.

Những chữ mà chàng từ chối giúp nàng giải mã.

Bời vì chàng là một con lừa. Giờ đây chàng đã nhận ra điều đó. Và chàng nhận ra một sự thật đơn giản là chàng có một việc vô cùng quan trọng để quan tâm, và có lẽ có rất ít thời gian để thực hiện.

Chàng đi lại gần cửa sổ để nghiên cứu tờ giấy dưới kính lúp. “Có vẻ như đây là những con số,” chàng nói sau vài phút.

Chàng đưa kính và tờ giấy cho nàng, “Em nghĩ sao?”

“Những con số,” nàng nói. “Nhưng không phải tất cả. Em không biết những thứ khác mang ý nghĩa gì. Hoa? Mặt trời? Vì sao? Một loại biểu tượng nào đó? Ngài có thấy nét khắc nào trên tường khi đo đạc không?”

“Những nét trang trí thông thường thôi,” chàng nói. “Nét chạm khắc xung quanh cửa, đại loại thế. Nhưng chẳng có gì trên tường đá cả. Chẳng có gì tương ứng với những dấu hiệu này.” Chàng giơ tờ giấy lên và so sánh nó với những bức tường xung quanh mình. “Ngoại trừ những con số và biểu tượng nhỏ, bức vẽ này trông khá giống bức tường này.”

Nàng nhìn chằm chằm vào tờ giấy. “Nó có thể là bất kỳ bức tường nào,” nàng nói, “nếu nó là một bức tường. Nhưng trông nó giống một bức tường. Đây có thể là một ô cửa sổ, ngài nghĩ sao?”

“Khó nói lắm. Em có các bản vẽ của ta ở đây không?”

“Em đưa cho Herrick rồi - nhưng không, đợi đã. Ông ấy đã coi xong rồi.” Nàng kéo hộc bàn và lấy tập bản vẽ ra. “Bọn em nghĩ tốt nhất nên cất nó ở nơi bọn em có thể lấy ra dễ dàng.”

Nàng lấy những bản vẽ ra. Ánh mắt của chàng lại chạm phải chiếc nhẫn.

Chàng trở lại với tập bản vẽ. Chàng nhìn chăm chú cho tới khi tâm trí tập trung hoàn toàn vào đó. “Nếu con số đó đo đáy bức tường này,” chàng nói, chỉ vào bản vẽ, “thì nó quá rộng so với căn phòng chúng ta đang đứng. Chiều dài của căn phòng này khoảng ba mét. Con số trong bản vẽ là bốn mét. Cũng là xấp xỉ. Có bao nhiêu phòng có một chiều dài bốn mét? Hầu hết các phòng ở tháp Nam đều áng chừng ở khoảng ấy. Cả phòng của Herrick nữa.”

“Còn chiều cao thì sao?” nàng hỏi. “Nếu con số đó là chiều cao của bức tường, phạm vi sẽ thu hẹp. Nó sẽ loại trừ những phòng ở tầng một.”

“Khu vực Herrick ở cũng sẽ được loại trừ.”

“Đây,” nàng nói. “Cạnh cầu thang gãy xuống tầng hầm. Gác lửng bên trên phòng giếng. Chính là nó.”

Chàng quay lại nhìn nàng.

Hai má nàng đỏ bừng. Ánh mắt xanh lung linh bắt gặp mắt chàng. Chàng lướt nhìn xuống khuôn miệng nàng, thật gần.

“Chính là đây,” chàng nói. “Chính là đây. Ta không thể làm được chuyện này.”

“Gì cơ?” nàng hỏi khẽ. “Làm gì cơ?”

“Giả vờ,” chàng nói. “Ta không giỏi giả vờ.”

Rồi chàng nhấc bổng nàng lên khỏi mặt đất và hôn nàng.

Nụ hôn ấy bạo liệt và không nhân nhượng, cái cách kiên định mà chàng thực hiện mọi việc chàng quyết làm. Nàng hôn lại chàng, với tất cả những gì nàng có, và hai chân nàng quấn lấy hông chàng. Hai tay chàng trượt xuống đỡ mông nàng.

Chàng đặt nàng lên bàn, ngừng hôn và gỡ tay nàng ra khỏi cổ, khi ấy nàng nghĩ, Nếu anh bỏ đi, em sẽ siết cổ anh.

Chàng quay người bước về phía cửa dẫn ra cầu thang, và nàng nghĩ, Anh là một gã đàn ông chết giẫm.

Chàng cài then cửa.

Chàng quay trở lại đứng trước mặt nàng.

Chàng nói, “Nào, để anh cởi quần áo cho em.”

Nàng nhìn xuống người mình và nói, “Em đâu có ướt.”

Chàng hạ thấp giọng thầm thì, “Vậy hãy bắt mình tin thế.”

Nàng cảm nhận được tiếng nói của chàng chạy rần rật từ cổ dọc xuống sống lưng. “Hay lắm,” nàng đáp.

Chàng đưa hai tay lên vai nàng. Chàng kéo khăn của nàng xuống bỏ qua một bên rồi trượt tay vào gáy nàng. Chàng cởi cái móc váy đầu tiên của nàng. Rồi thứ hai. Rồi thứ ba.

Đó là những cái móc nhỏ xíu, nhưng chàng đã tháo được chúng, từng cái một; trong lúc ấy ánh mắt chàng không rời khỏi gương mặt nàng, và nàng cũng không thể rời mắt khỏi chàng, khỏi đôi mắt xám bạc lấp lánh ấy.

Chàng tháo những cái móc lớn trên eo nàng. Nàng cảm thấy lưng váy bung ra. Chàng kéo viền áo của nàng xuống và tháo những dải rút trên tay áo bồng. Chàng cúi xuống tháo những cái nút ngọc trai bé xíu trên cổ tay áo. Tay phải. Rồi tay trái.

Nàng nhìn chằm chằm vào đỉnh đầu chàng, vào mái tóc vàng mềm mại như tơ như một người bị thôi miên. Rồi nàng thọc hai bàn tay vào đó. Giờ đây, nàng đã để chàng tự ý làm những gì chàng muốn.

Chàng kéo thân váy tuột xuống hông nàng. Chàng giật mạnh. Nàng nhấc mông và chàng lôi cái váy ra thả xuống sàn nhà.

Chàng chẳng nói một lời.

Nàng cũng không nói gì. Hoàn toàn tĩnh lặng. Không có lời nào giữa họ. Tuyệt đối. Chỉ có tiếng thở và tiếng bàn tay chàng lướt trên quần áo, da thịt nàng.

Chàng rất mải mê. Khéo léo. Chàng tháo dải rút trên váy lót rồi kéo ra và thả trượt xuống sàn. Chàng đá qua bên, cúi xuống vai nàng và cởi dây áo nịt.

Hơi thở của nàng gấp gáp hơn. Chàng cũng thế. Nàng nghe thấy. Nhưng không có lời nào. Họ không cần nói lời nào cả, không phải lúc này.

Chàng kéo cái áo nịt ra. Được giải phóng, áo lót của nàng từ vai trượt xuống, để lộ bầu ngực. Nàng không cố che chắn cơ thể. Chàng không cố che chắn cho nàng. Chàng cứ để mặc cái áo lót như thế, và tiếp tục với quần chẽn của nàng.

Từng luồng cảm giác cứ run rẩy dào dạt khắp da thịt nàng.

Chàng cởi các dải rút và kéo quần chẽn của nàng xuống. Nó rơi lên đống váy áo. Tiếp đến là nịt bít tất. Rồi tới bít tất. Rồi chàng kéo áo lót của nàng qua đầu.

Giờ đây nàng hoàn toàn khỏa thân, ngồi trên bàn, run rẩy đến từng tế bào.

Chàng vẫn mặc nguyên quần áo.

Từ sâu trong bụng nàng, những cảm giác cứ trào lên cuộn xuống. Nàng cố ngồi thật yên.

Chàng nhìn nàng, ánh mắt bạc trượt khắp da thịt như mơn trớn. Nàng cảm thấy điều đó trong da thịt mình, râm ran xuống khoảng giữa hai chân.

Rồi chàng vươn người về phía nàng. Nàng nghĩ chàng sẽ hôn nàng, và nàng cong môi lên. Nhưng chàng hôn lên má. Rồi chàng liếm nó thật nhẹ nhàng.

Nàng run rẩy.

Không phải vì lạnh. Da nàng như lửa đốt. Bên trong cơ thể nóng bỏng và náo loạn.

Chàng quỳ xuống, lướt đôi môi khắp chân nàng. Chàng hôn bàn chân nàng, từng ngón một. Rất điệu nghệ. Với sự chú tâm tuyệt đối.

Sâu trong bụng nàng là cảm giác xao động cuồng dại, một cảm giác râm ran mà nàng không thể gọi tên.

Và thánh thần ơi, tất cả các vị thần, thần Dớt cùng các thần khác, mọi thiên thần và cả thánh tăng nữa, chàng lại hôn ngược lên chân nàng tới khoảng giữa hai chân.

Rồi nàng la toáng lên - hay nàng cảm thấy như thế, một tiếng kêu vang vọng trong căn phòng nhỏ.

Tay chàng đặt lên bụng nàng và đẩy, nàng nằm xuống bàn, ngoan ngoãn, quằn quại và khẽ rên rỉ dữ dội, những tiếng kêu nghe như Ôi Chúa ơi Ôi Chúa ơi Ôi Chúa ơi.

Những ngọn núi lửa nhỏ trào dâng bên trong nàng và nàng run bắn, và rồi nó xảy đến, con sóng cuồng điên hung bạo hất nàng lên cao cao mãi, bắn tung vào trời xanh, rồi ném nàng trở lại, tơi tả.

“Ôi Chúa ơi Ôi Chúa ơi ôi Chúa ơi.”

Khi ấy tiếng nói của chàng cất lên, thấp và khàn đặc. “Em đang run. Anh phải sưởi ấm cho em từ bên trong.”

“Vì Chúa, Lisle, nhanh lên!”

Nàng nghe tiếng cười khẽ của chàng và tiếng sột soạt của quần áo. Rồi chàng thọc vào nàng. Nàng giật cong mình, mắt mở to, cào cấu lên cánh tay chàng.

Chàng dừng lại, mắt cũng mở to. “Em đau à?”

“Không, ôi không. Ngược lại... của đau. Ôi Lisle. Chúa ơi.”

Đêm qua thì có đau, và nàng đã cảm thấy buốt nhói, ngay cả lúc sung sướng nhất. Nhưng lần này thì hoàn toàn khác. Chàng phủ lấp nàng, nó nóng bỏng và - và tuyệt vời. Nàng với tay lên vai chàng, kéo lại gần hơn, để có chàng nhiều thêm nữa. Nàng chuyển động hông, “Ôi, đúng thế,” nàng nói. “Như thế này đây.”

“Chuyện này quá vô lý,” nàng nói.

“Phải,” chàng đáp.

“Nó hoàn hảo,” nàng tiếp lời.

“Ôi, Olivia.”

Cuộc hội thoại kết thúc ở đó. Chàng hôn nàng, một nụ hôn dai dẳng vô tận trong khi hai cơ thể cùng nhau lắc lư, nhanh hơn và dữ dội hơn. Rồi một cơn sóng lại tới nâng nàng lên, cao mãi và cao mãi. Nó treo nàng trên chín tầng mây, nàng thấy những vì sao, và nàng cười, vừa cười vừa nói. “Em yêu anh nhiều lắm.”

Rồi cơn sóng ấy tới và nhẹ nhàng hạ nàng xuống. Nàng hôn lên má, môi rồi cổ chàng. Và nàng thì thào, “Yêu anh, yêu anh.”

Nàng lịm đi.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Nhấn vào giữa màn hình để hiển thị Tùy chọn đọc.
Theo dõi Đọc Sách Hay trên Facebook, mỗi ngày chúng tôi cập nhật những cuốn sách, truyện hay nhất!

Có thể bạn thích