Như không hề có
Chương 10

DocSachHay.net

ip nói lúc nào ta cũng có thể tìm ra ai đó ở quán Pages ở Encino lúc một hoặc hai giờ sáng. Một tối, tôi và Rip lái xe đến đó vì Dupar’s đã chật cứng mấy thằng choai choai vừa đến từ các bữa tiệc trắng(42) và cả những mụ diễn viên già đi giày trị liệu, mặc những bộ cánh giống nhau đính hoa tử đinh hương, luôn miệng kêu gọi người khác trật tự. Thế nên tôi và Rip đến Pages, thấy Billy và Rod ở đó, rồi cả Simon, Amos, LeDeu, Sophie, Kristy và David. Sophie ngồi cùng chúng tôi và kéo cả LeDeu với David sang. Sophie kể với chúng tôi về buổi biểu diễn của Vice Squad bên The Palace, bảo rằng thằng em cô đã tuồn cho cô một viên thuốc dỏm trước giờ diễn, thành thử cô ngủ suốt cả buổi. LeDeu và David là thành viên một ban nhạc có tên Western Survival, cả hai đều có vẻ bình thản và cẩn trọng. Rip hỏi Sophie xem một gã tên Boris đang ở đâu, cô liền đáp rằng gã đó ở căn nhà đằng Newport. Trên đầu LeDeu có một mảng tóc đen to tổ chảng, cứng ngắc, chỉa tua tủa tứ phía, và gã bảo tôi rằng hễ khi nào gã đến Dupar’s, dân tình đều né tránh gã. Thành thử, gã với David bao giờ cũng tới Pages. Sophie thiếp đi trên vai tôi, chẳng mấy chốc cánh tay của tôi tê cứng, nhưng tôi không nhúc nhích vì cô đang tựa đầu lên đó. David đeo kính râm, mặc áo thun Fear, bảo tôi rằng gã có trông thấy tôi trong bữa tiệc đón năm mới của Kim. Tôi gật đầu, nói tôi có nhớ, dù gã không hề dự bữa tiệc đó.

Chúng tôi tán chuyện về các bài hát mới, tình trạng mấy ban nhạc ở L.A., cơn mưa, Rip pha trò với một cặp vợ chồng già người Mexico ngồi đối diện chúng tôi, gã lia mắt nhìn họ, lướt chiếc mũ phớt đen đang đội ngang mặt và toét miệng cười. Tôi cáo lỗi vào nhà vệ sinh. Có hai câu đùa viết trên bức tường nhà vệ sinh của Pages: Làm một mụ xơ ễnh bụng như thế nào? Phang mụ. Sự khác biệt giữa một J.A.P. và một tô mì spaghetti là gì? Spaghetti ngọ nguậy khi ta xơi nó. Và bên dưới những câu đùa là: Julian thổi kèn điệu nghệ. Nhưng ngỏm mất rồi.”

Tuần cuối ở hoang mạc, mọi người đã về nhà gần hết. Chỉ còn ông bà, bố mẹ và tôi ở lại. Đám người hầu đã đi cả, người làm vườn và người phục vụ bể bơi cũng thế. Hai em gái tôi đã đi San Francisco cùng cô và mấy đứa con cô. Ai nấy đều đã chán ngấy Palm Springs. Suốt chín tuần, chúng tôi vẫn đi đi về về chốn này và riêng trong ba tuần vừa rồi, chúng tôi không đi đâu khác nữa ngoại trừ Sancho Mirage. Không có nhiều sự kiện xảy ra trong cả tuần lễ cuối cùng. Một hôm, hai ngày trước khi tất cả rời đi, bà lên phố cùng mẹ tôi, mua một chiếc ví màu xanh da trời. Đêm hôm đó, bố mẹ tôi đưa bà đến dự tiệc ở nhà một đạo diễn. Tôi ở lại trong căn nhà rộng cùng ông nội, ông lúc ấy đã say mèm và ngủ từ hồi chiều.

Đêm ấy trời rất ấm, trong lúc ông ngủ, tôi ăn bít tết và sườn được vận chuyển qua đường hàng không về hai ngày trước đó từ một trong các khách sạn do ông tôi làm chủ ở Nevada. Tôi xem “The Twilight Zone” chiếu rồi lại đi dạo. Ngoài đường không có một ai. Những cây cọ run rẩy, đèn đường sáng trưng, nếu phóng mắt vượt qua căn nhà, hướng vào hoang mạc, ta sẽ chỉ thấy một màu đen thăm thẳm. Tuyệt nhiên không có lấy một bóng xe nào lướt qua, tôi nghĩ mình đã trông thấy một con rắn chuông trườn vào ga ra. Bóng tối, gió, tiếng bờ giậu lao xao, hộp thuốc lá rỗng ruột nằm trên lối vào, tất thảy đều khiến tôi sợ hãi, thế nên tôi chạy bổ vào nhà, có cái đèn nào là bật hết, trèo lên giường ngủ thiếp đi, lắng nghe tiếng gió hoang mạc kỳ quái rền rĩ ngoài cửa sổ phòng mình.

Khuya thứ Bảy, chúng tôi tụ tập cả bên nhà Kim. Ở đây chả có mấy trò hay để làm, ngoại trừ việc uống gin pha tonic và vodka pha thật nhiều nước chanh, xem những bộ phim cũ trên Betamax. Tôi không thể rời mắt khỏi bức chân dung mẹ Kim treo trên quầy rượu trong phòng khách trần cao. Tối nay không có nhiều sự kiện, trừ việc Blair nghe nói về quán New Garage mở cửa các ngày 6 và 7, hoặc 7 và 8 ở khu trung tâm, thành thử Dimitri, Kim, Alana, Blair và tôi quyết định lái xe sang đó.

New Garage thực chất là một câu lạc bộ nằm trên một khu đậu xe bốn tầng, tầng một, hai và ba đều bỏ trống, hãy còn hai chiếc xe hơi đậu ở đó từ hôm trước. Câu lạc bộ nằm trên tầng bốn. Nhạc nhẽo ầm ầm, người người nhảy nhót, cả tầng nồng nặc mùi bia, mùi mồ hôi pha lẫn xăng dầu. Đĩa đơn mới của Icicle Works vang lên, hai thành viên của The Go-Go có mặt ở đó, cùng với một tay ở The Blasters, Kim nói cô trông thấy John Doe và Exene đứng bên cạnh tay DJ. Alana bắt đầu tán dóc với hai gã trai người Anh làm việc ở Fred Segal mà cô quen. Kim thì nói chuyện với tôi. Cô nói cô không nghĩ Blair còn thích tôi nhiều lắm. Tôi nhún vai, đưa mắt ra ngoài cửa sổ để ngỏ. Từ chỗ đang đứng, tôi nhìn qua cửa sổ, vào đêm tối, hướng lên, tầng trên cùng của các tòa nhà trong khu trung tâm tối tăm, lác đác đây đó một căn phòng sáng đèn. Có một nhà thờ lớn với cây thánh giá phát sáng được đẽo gần như bằng đá nguyên khối trên mái nhà, chĩa thẳng lên mặt trăng, một mặt trăng dường như tròn trịa hơn, mang một màu vàng kỳ dị hơn so với trong trí nhớ của tôi. Trong một thoáng, tôi nhìn sang Kim nhưng không hề cất tiếng. Tôi trông thấy Blair trên sàn nhảy, bên một gã choai choai xinh trai nào đó, áng chừng mười sáu, mười bảy tuổi, trông hai đứa vui vẻ ra mặt. Kim nói thật tệ, dù tôi không cho là cô nàng có ý đó. Dimitri, say khước và lảm nhảm, lết sang chỗ chúng tôi, tôi tưởng gã chuẩn bị nói gì đó với Kim, nhưng thay vào đó gã lại thò tay ra ngoài cửa sổ, bị kẹp tay vào lớp kính, và khi gã cố gắng rụt tay vào, bàn tay liền bị cứa mạnh và đứt, máu bắt đầu túa ra, bắn tóe lên lớp kính. Sau khi đưa gã tới phòng cấp cứu nào đó ở một bệnh viện nào đó, chúng tôi đến một quán cà phê trên Wilshire, ngồi lỳ ở đó đến khoảng bốn giờ, rồi cả lũ về nhà.

Trước khi tôi đi chơi với Blair, trên ti vi lại chiếu một chương trình truyền giáo nữa. Người phát biểu có mái tóc bạc, diện kính râm hồng, mặc áo khoác có ve áo rất rộng, cầm micro nói. Một bức tượng Chúa chăng đèn nê ông đứng trơ đằng sau. “Ngươi cảm thấy lúng túng. Ngươi cảm thấy bực dọc,” gã nói với tôi. “Ngươi chẳng hiểu nỗi điều gì đang xảy ra. Vì lẽ ấy, ngươi cảm thấy tuyệt vọng, vô phương cứu chuộc. Vì lẽ ấy, ngươi cảm thấy hoàn toàn không có lối thoát. Nhưng Jesus sẽ tới. Ngài sẽ tới qua đôi mắt gắn trên màn hình ti vi này. Jesus sẽ lập một tấm rào chắn trên đường đời của ngươi, để ngươi có thể quay vòng, và Ngài sẽ làm điều đó cho ngươi ngay lúc này. Thưa Cha bề trên, xin Ngài hãy thả tự do cho kẻ bị giam cầm. Xin hãy bảo ban họ, những kẻ chịu tù đầy. Hãy chào mừng Đức Chúa. Hay lấy đêm nay làm đêm Cứu rỗi. Hay nói với Jesus, Xin Người hay thứ tha cho tội lỗi của con, rồi ngươi sẽ cảm thấy niềm sướng vui không thể thốt nên lời. Chúc cho chiếc cốc của ngươi luôn đầy tràn. Nhân danh Chúa, Amen... Hallelujah!”

Tôi chờ đợi điều gì đó xảy ra. Tôi ngồi thừ ra đó ngót một tiếng đồng hồ. Chẳng có gì xảy ra. Tôi nhổm dậy, hít nốt chỗ coke còn lại giấu trong tủ tường, tạt qua Polo Lounge làm một ly trước khi đến đón Blair, vì tôi đã gọi cô từ trước và nói tôi có hai vé xem ca nhạc ở Amphitheater, và cô chẳng nói gì ngoài câu “Em sẽ đi”, đoạn tôi nói sẽ đón cô lúc bảy giờ, và cô gác máy. Tôi tự nhủ, trong lúc ngồi một mình bên quầy rượu, rằng mình sẽ gôi cho một trong những số điện thoại lóe lên phía dưới cùng trên màn hình. Nhưng tôi nhận ra mình chẳng biết phải nói gì. Và tôi nhớ đến tám từ người đàn ông kia đã nói. Hay lấy đêm nay làm đêm Cứu rỗi.

Không hiểu sao tôi lại nhớ đến những từ ấy khi cùng Blair ngồi ở Spago, lúc xem xong buổi biểu diễn, bấy giờ đã muộn, và chỉ có hai đứa tôi ngồi ngoài hàng hiên, Blair thở dài, xin một điếu thuốc. Chúng tôi uống Champagne Kirs, nhưng Blair uống quá nhiều nên khi cô gọi đến ly thứ sáu, tôi bèn bảo có lẽ cô uống thế là đủ rồi, và cô nhìn tôi nói, “Con này đang nóng và khát, con này sẽ gọi bất cứ thứ khốn nạn nào con này muốn.”

Tôi đang ngồi với Blair trong một tiệm kem Ý ở Westwood. Blair và tôi ăn một loại kem Ý gì đấy và nói chuyện. Blair nói truyền hình cáp tuần này có chiếu Invasion of the Body Snatchers.

“Bản gốc á?” tôi hỏi, thắc mắc vì sao cô nàng lại nói về bộ phim đó. Tôi bắt đầu có những liên tưởng hoang đường.

“Không.”

“Bản làm lại,” tôi thận trọng hỏi.

“Ừ.”

“Phải.” Tôi nhìn về ly kem của mình, tôi chưa ăn nhiều lắm.

“Anh có cảm thấy động đất không?” cô hỏi.

“Gì cơ?”

“Sáng nay anh có cảm thấy động đất không?”

“Động đất?”

“Ừ.”

“Sáng nay?”

“Ừ.”

“Không. Anh không thấy.”

Im lặng. “Em cứ nghĩ có thể anh cảm thấy.”

Trong bãi đậu xe, tôi quay sang cô nói, “Nghe này. Anh xin lỗi, thực sự đấy,” dù tôi không chắc lắm là mình có thật sự hối lỗi hay không.

“Đừng,” cô nói. “Không sao đâu.”

Tại chốt đèn đỏ trên Sunset, tôi nghiêng người hôn cô, rồi cô sang số hai, tăng tốc. Trên đài vang lên một bài hát tôi đã nghe tới năm lần trong ngày hôm nay nhưng vẫn ậm ừ hát theo. Blair châm thuốc hút. Chúng tôi đi ngang qua một người đàn bà nghèo có mái tóc bẩn thỉu, bù xù, xách một túi Bullock đầy nhóc báo đã ố vàng đặt bên cạnh. Bà ngồi chồm hỗm trên vệ đường xa lộ, mặt ngửa lên trời, mắt nhắm hờ vì bị chói nắng. Blair chốt cửa xe lại, rồi chúng tôi lái xe men theo một con phố nhỏ lên đồi. Không có chiếc xe nào chạy qua. Blair bật đài. Cô đã không nhìn thấy con sói ấy. Nó to xác, màu nâu xám, chiếc xe chẹt mạnh phải con sói đúng lúc nó chạy ra giữa đường, Blair liền thét lên, ra sức lái xe đi tiếp, làm rơi cả mẩu thuốc lá trên môi. Nhưng con sói bị mắc kẹt dưới bánh xe rú lên, thành thử chiếc xe phải khó nhọc lắm mới nhích thêm được. Blair dừng xe, lùi lại, tắt động cơ. Tôi không muốn ra ngoài, nhưng Blair cứ khóc như điên dại, gục đầu xuống vạt váy, nên tôi đành phải ra khỏi xe, chậm rãi tiến về phía con sói. Nó đang nằm bên cạnh chiếc xe, cố gắng đập đập cái đuôi. Mắt nó mở to, đầy vẻ khiếp sợ, tôi nhìn nó chết dần dưới ánh mặt trời, miệng túa máu. Cẳng chân của nó bị đè nát, người nó co giật, và tôi để ý đến vũng máu đang chảy ra trên đầu nó. Blair gọi tôi, nhưng tôi lờ đi và nhìn con sói. Tôi đứng đó mười phút. Không có xe cộ chạy ngang qua. Con sói rùng mình, oằn người ba, bốn lần, rồi mắt nó chuyển sang màu trắng dã. Ruồi nhặng bắt đầu bâu lại, bay là là trên đống máu và màng mắt đang khô. Tôi quay về xe, Blair liền phóng đi, về tới nhà, cô bật ti vi lên, tôi nghĩ cô đã uống một viên Valium hay Thorazine gì đó, và hai chúng tôi lên giường khi bài “Another World” bắt đầu vang lên.

Tại bữa tiệc của Kim tối đó, khi mọi người cùng chơi Quarters và uống đến say thì thôi, Blair ngồi bên tôi trên đi văng trong phòng khách, nghe một album XTC cũ, Blair bảo tôi rằng có khi hai đứa nên đến nhà nghỉ, thế là chúng tôi đứng dậy, ra khỏi phòng, đi qua bể bơi sáng đèn, vào đến nhà nghỉ, hai đứa liền hôn nhau một cách hoang dại, chưa bao giờ tôi khao khát cô đến thế, cô bấu vào lưng tôi, kéo tôi về phía cô mạnh tới mức khiến tôi mất thăng bằng, rồi hai đứa cùng chậm rãi quỳ xuống, tay cô lần mò dưới áo tôi, và tôi cảm thấy bàn tay cô, mềm mại, mát lạnh trên ngực mình, thế là tôi hôn, liếm cổ cô, rồi đến tóc cô, mái tóc thoảng hương nhài, rồi tôi áp người lên cô, người này kéo quần người kia, lần sờ nhau, tôi xoa tay dưới quần lót của cô, rồi khi tôi nhanh chóng vào trong cô, cô hít vào thật sâu, tôi ráng giữ mình bất động.

Tôi đang ngồi ở Trumps với bố. Ông đã mua một chiếc Ferrari mới và bắt đầu xì tai đội mũ cao bồi. Tôi nhẹ người vì bố không đội chiếc mũ cao bồi vào Trumps. Ông muốn tôi gặp người xem tử vi của ông và khuyên tôi nên mua bộ Tử vi cho Cung Sư tử cho năm tới.

“Con sẽ mua.”

“Những dao động của vũ trụ tác động đến cơ thể mình một cách kỳ lạ(43),” ông nói.

“Con biết.”

Chúng tôi ngồi bên cửa sổ để mở, tôi nâng ly champagne lên miệng, mắt nhắm nghiền, mặc cho những làn gió nóng thổi tóc bay lòa xòa, rồi quay đầu nhìn ra phía đồi núi. Một doanh nhân tạt qua. Tôi đã bảo mẹ tôi đến, nhưng bà cáo bận. Khi tôi nói chuyện với bà, bà đang nằm ngoài bể bơi đọc tạp chí Glamour.

“Chỉ uống nước thôi mà,” tôi nói.

“Mẹ không muốn đến Trumps để chỉ uống nước.”

Tôi thở dài, không nói gì.

“Mẹ không muốn đi đâu hết.”

Một trong hai đứa em tôi đang nằm bên cạnh mẹ nhún vai, đeo kính râm lên mắt.

“Thêm nữa mẹ định xem truyền hình cáp rồi,” mẹ nói, tỏ ra căng thẳng khi tôi đi khỏi bể bơi.

Gã doanh nhân bỏ đi. Bố tôi không nói gì nhiều. Tôi cố khơi chuyện. Tôi kể cho ông nghe về con sói mà Blair chẹt phải. ông bảo thật tệ quá. Ông liên tục nhìn ra ngoài cửa sổ, ngắm chiếc Ferrari đỏ có vòi nước chữa cháy. Bố tôi hỏi tôi có háo hức muốn quay lại New Hampshire không, tôi nhìn ông và nói có.

Tôi tỉnh giấc vì có tiếng rì rầm bên ngoài. Tay đạo diễn tổ chức bữa tiệc mà bố mẹ tôi đưa bà tới dự tối hôm trước đang ngồi bên cái bàn ở phía ngoài, dưới tán ô, dùng bữa phụ. Vợ ông ta ngồi kế bên. Trông bà khỏe mạnh dưới bóng râm của tán ô. Tay đạo diễn bắt đầu nói về cái chết của một người đóng thế cho một trong các bộ phim của ông. Ông ta nói về chuyện anh ta đã bị trượt một bước ra làm sao. Anh ta đã ngã đập đầu xuống vỉa hè bên dưới.

“Cậu ấy là một chàng trai tuyệt vời. Mà hồi đó cậu ấy chỉ mới mười tám tuổi.”

Bố tôi khui thêm bia.

Ông nội tôi nhìn xuống, vẻ buồn bã. “Tên cậu ấy là gì?” ông hỏi.

“Gì cơ?” Tay đạo diễn đưa mắt nhìn lên.

“Tên cậu ấy là gì? Tên của cậu bé đó là gì?”

Một khoảng lặng thật dài trôi qua, tôi có thể cảm nhận được những cơn gió hoang mạc, nghe thấy tiếng nước động trong bồn tắm mát xa, tiếng bể bơi rút nước và tiếng Frank Sinatra hát “Summer Wind,” tôi cầu mong tay đạo diễn nhớ ra cái tên ấy. Không hiểu sao điều đó dường như vô cùng hệ trọng với tôi. Tôi tha thiết muốn nghe tay đạo diễn nói ra cái tên ấy. Tay đạo diễn mở miệng nói, “Tôi quên mất rồi.”

Sau bữa trưa cùng bố, tôi lái xe tới nhà Daniel. Ả hầu mở cửa dẫn tôi ra sân sau, nơi mẹ Daniel - tôi đã gặp bà ở Parents Day tại Camden, New Hampshire - đang mặc bikini chơi tennis, mình bôi đầy dầu làm sậm da. Bà ngừng chơi với máy bắn bóng, tiến đến chỗ tôi, kể về Nhật Bản với Aspen, về cả giấc mơ lạ lùng trong đó Daniel bị bắt cóc. Bà ngồi lên chiếc ghế dài cạnh bể bơi, ả hầu đưa trà đá cho bà, mẹ Daniel vớt chanh lên ngậm, ngó trân trân một thằng bé tóc vàng đang nhặt lá ra khỏi bể bơi, rồi bà bảo tôi là bà mắc chứng đau nửa đầu, và bà không gặp Daniel đã mấy ngày rồi. Tôi bước vào trong nhà, lên cầu thang, đi qua tấm áp phích quảng cáo bộ phim mới của bố Daniel, rồi vào phòng Daniel để đợi nó. Khi đã biết chắc là Daniel sẽ không về, tôi lên xe lái tới nhà Kim để lấy lại cái áo khoác của mình.

Thứ đầu tiên tôi nghe thấy khi bước vào căn nhà là tiếng hét. Ả hầu xem chừng không bận tâm và trở vào bếp sau khi mở cửa cho tôi. Bên trong vẫn chưa có đồ đạc, tôi nhìn thấy những chiếc bình Đức quốc xã lúc ra ngoài bể bơi. Người la hét là Muriel. Tôi tiến đến chỗ cô đang nằm cùng với Kim và Dimitri bên bể bơi, và cô thôi hét. Dimitri diện Speedos đen, đội mũ rộng vành, ôm guitar điện và ra sức chơi “L.A. Woman,” nhưng nó chơi không nhuyễn lắm vì giờ tay nó lại phải băng bó tiếp do đã làm băng toác ra ở New Garage, và cứ mỗi lần chạm tay vào đàn, mặt nó lại nhăn nhó. Muriel lại hét. Kim đang hút một điếu cần sa, sau rốt cũng thấy tôi, nhổm dậy bảo tôi rằng cô cứ tưởng mẹ mình đang ở Anh, nhưng cô mới đọc Variety và được biết hóa ra bà đang ở Hawaii đề tìm chỗ quay phim với đạo diễn phim kế tiếp của bà.

“Anh nên gọi trước khi đến mới phải,” Kim bảo tôi đưa điếu cần sa cho Dimitri.

“Anh có gọi, nhưng chả ai nhấc máy cả,” tôi nói dối, thừa biết kể cả tôi gọi thật thì cũng không ai nhấc máy.

Muriel thét lên, Kim nhìn sang cô nàng, lơ đãng nói, “À, có khi anh gọi mấy cái số em đã ngắt mất rồi.”

“Có thể,” tôi bảo cô. “Anh xin lỗi. Anh chỉ đến lấy cái áo khoác của anh.”

“À, em chỉ... lần này thì được, nhưng em không thích dân tình cứ tạt qua đây. Ai đó cứ nói cho thiên hạ biết nơi em ở. Em không ưng như vậy.”

“Bao giờ em đi học lại?” tôi hỏi khi chúng tôi đi về phòng cô.

“Em không biết,” cô trở nên phòng thủ. “Mà năm học đã bắt đầu chưa nhỉ?”

Chúng tôi bước vào phòng cô. Trên sàn chỉ có độc một cái nệm lớn, một dàn stereo khổng lồ, đắt tiền choán hết một bờ tường, một tấm áp phích Peter Gabriel và một đống quần áo chất ở góc phòng. Trên nệm còn có những bức hình chụp trong buổi tiệc đón năm mới của cô. Tôi thấy một tấm trong đó Muriel đang tiêm thuốc, mặc áo khoác của tôi, còn tôi đang nhìn sang. Trong một tấm khác, tôi đứng trong phòng khách, mặc độc áo thun với quần jeans, ráng khui một chai champagne, trông hoàn toàn lạc lõng. Một tấm khác, Blair đang châm thuốc lá. Rồi một tấm chụp Spit đang say xỉn đứng dưới lá cờ. Ngoài kia, Muriel vẫn gào thét còn Dimitri vẫn cố chơi guitar.

“Dạo này em làm gì?” tôi hỏi.

“Dạo này anh làm gì?” cô vặn lại.

Tôi không nói.

Cô nhìn lên, bối rối. “Nào Clay, cho em biết đi.”

Cô nhìn đống quần áo. “Anh phải làm gì đó chứ.”

“Ôi, anh không biết.”

“Anh làm gì nào?” cô hỏi.

“Việc nọ việc kia, chắc thế,” tôi ngồi lên tấm nệm.

“Ví dụ việc gì?”

“Anh không biết. Loanh quanh.” Giọng tôi vỡ ra, trong phút chốc tôi nghĩ về con sói, tưởng như sắp òa khóc đến nơi, nhưng khoảnh khắc ấy lại trôi qua, tôi chỉ muốn lấy áo và rời khỏi đây.

“Ví dụ?”

“Mẹ em đang làm gì?”

“Đọc lời cho một phim tài liệu nói về chứng liệt co cứng ở thiếu niên. Anh làm gì hả Clay?”

Ai đó đã viết bảng chữ cái lên tường, có lẽ là Spit, hoặc Jeff, hoặc Dimitri. Tôi ráng dồn hết tâm trí vào đó, nhưng tôi nhận ra hầu hết chữ cái không được viết đúng trật tự, thế là tôi hỏi, “Mẹ em còn làm gì nữa không?”

“Mẹ sắp quay một bộ phim ở Hawaii. Thế anh làm gì?”

“Em đã nói chuyện với mẹ chưa?”

“Đừng hỏi em về mẹ em.”

“Sao lại không?”

“Đừng nói thế.”

“Sao lại không?” tôi lại hỏi.

Cô tìm ra cái áo khoác. “Đây rồi.”

“Sao lại không?”

“Anh làm gì?” cô hỏi, đưa cho tôi cái áo.

“Em làm gì?”

“Anh làm gì?” cô hỏi, giọng run lên. “Đừng hỏi em, làm ơn đấy. Được chứ, Clay?”

“Sao lại không?”

Cô ngồi lên tấm nệm khi tôi đứng dậy. Muriel gào thét.

“Bởi vì… em không biết,” cô thở dài.

Tôi nhìn cô vô cảm, mang áo khoác bước ra ngoài.

Rip và tôi đang ngồi trong I.R.S. Records trên La Brea. Một tay giám đốc quảng cáo đang mua coke từ Rip. Tay này hai mươi hai tuổi, tóc bạch kim, diện đồ trắng từ đầu đến chân. Rip hỏi gã có thể bán gì cho hắn.

“Cần ít coke,” tay giám đốc nói.

“Tuyệt,” gã nói, mò mẫm trong túi áo khoác hiệu Parachute.

“Trời bên ngoài đẹp thật,” tay đó nói.

“Ừ, tuyệt thật,” Rip nói.

“Tuyệt,” tôi nói.

Rip hỏi tay đó xem hắn có thể thu xếp cho gã xem buổi hòa nhạc Freshtones từ hậu trường không. “Tất nhiên rồi,” hắn đưa Rip hai phong bì nhỏ.

Rip bão gã sẽ nói chuyện với hắn sau, sơm sớm thôi, rồi đưa hắn một chiếc phong bì.

“Tuyệt,” gã nói.

Chú thích


42. Nguyên văn: Toga parties. Toga là một loại áo quấn quanh người màu trắng, trang phục của người La Mã cổ.

43. Bố của Clay đang nói đến thuật chiêm tinh - tử vi phổ biến ở các nước Âu Mỹ (Astrology). Theo đó, người ta tin rằng những vị trí nhất định của các thiên thể vũ trụ có thể chỉ ra tính cách, số phận con người.

 

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Nhấn vào giữa màn hình để hiển thị Tùy chọn đọc.
Theo dõi Đọc Sách Hay trên Facebook, mỗi ngày chúng tôi cập nhật những cuốn sách, truyện hay nhất!
Như không hề có Chương 10

Có thể bạn thích