Đó là lần đầu tiên cô nhìn thấy anh, trong một lô riêng ở Hoàng Cung Thời
Đại. Hôm ấy cô phải đi xã giao với khách hàng cùng ông chủ thay cho cô
thư ký bận việc đột xuất. Lô họ ngồi ngập trong ánh đèn màu mờ ảo, khói
thuốc lượn lờ, lại có rượu ngon và gái đẹp vây quanh. Khung cảnh tựa cõi thần tiên ấy khiến mọi người đều cảm thấy rất vui vẻ, nhưng cô thì
không. Lúc bình thường, thi thoảng cô vẫn đi cùng bạn bè, đồng nghiệp
đến những nơi như thế này tiêu khiển, nhưng hôm nay lại bị kéo đi làm
người chiêu đãi khách, cô cảm thấy rất vô vị. Nhanh chóng viện một cái
cớ, cô chuồn ra ngoài hành lang đổi gió.

Ánh sáng
ngoài này cũng mờ mờ, những bóng đèn tường màu đỏ dọc theo hành lang hắt xuống khiến mặt sàn thủy tinh trông càng thêm lung linh huyền ảo. Một
bóng người lướt qua cô, làm vương lại một làn gió thơm ngát. Cô không để ý, vẫn tiếp tục thẩn thơ. Đi được vài bước, người kia quay đầu lại. “Tử Mặc? Có phải Triệu Tử Mặc không?” Giọng nói yểu điệu mà vô cùng quen
thuộc ấy khiến cô ngẩng đầu lên. Quả nhiên là cô bạn cùng trường ngày
trước – Vu Phính Đình.

“Đồ quỷ sứ,
lâu như vậy rồi mà chẳng thèm liên lạc gì với bạn bè cả! Ai cũng tưởng
cậu bốc hơi rồi chứ!…” Vu Phính Đình trách yêu cô. “Không gặp thì thôi,
hôm nay đã gặp nhau ở đây, đừng hòng tớ buông tha cho cậu nhé!” Mặt cô
thoáng đỏ lên, cũng may là trùng màu với ánh đèn nên Phính Đình không
thấy được. Với người khác, có lẽ bốn năm đại học là thời kỳ huy hoàng
nhất của tuổi trẻ, chỉ biết mỗi học hành và hưởng thụ, còn với cô, chuỗi ngày ấy chỉ xoay quanh công việc, học hành, rồi lại công việc, lấy đâu
ra thời gian để thân thiết với bạn bè cùng lớp. Vậy nên đến tận bây giờ, cô vẫn tiếc nuối mỗi khi hồi tưởng lại quãng đời đại học của mình,
nhưng tiếc nuối mãi vẫn chỉ là nuối tiếc… Bởi nếu thời gian có quay trở
lại, cô cũng chẳng thể làm gì khác hơn.

“Qua bên kia ngồi với tớ, cho tớ số phone của cậu luôn. Mấy năm nay lớp mình họp vài lần rồi, nhưng chẳng ai liên lạc được với cậu hết!” Phính Đình có vẻ
hơi say, đôi gò má khẽ ửng hồng như phủ một lớp phấn, trông cực kỳ rạng
rỡ. Năm đó mới nhập học, cô nàng đã gây xôn xao cả khoa Ngoại ngữ, bây
giờ càng ngày càng biết cách làm đẹp hơn, e rằng đến cả minh tinh màn
bạc cũng không dám đứng gần cô, sợ bị đem ra so sánh. Hồi ấy hai người
chỉ quen biết sơ sơ, nếu không nhờ một chuyến du lịch của lớp, chắc bây
giờ gặp nhau cũng chỉ cùng lắm là mỉm cười thăm hỏi, rồi lại đường ai
nấy bước mà thôi.

Sang lô của
Phính Đình, cô suýt té ngửa – không ngờ nó lại hoa lệ đến vậy, còn lộng
lẫy hơn cả lô của sếp tổng cô gấp mấy lần… Có mấy người đàn ông đang
ngồi quanh hai bên bàn, còn vài người khác đang hát hò với mấy cô em
xinh đẹp. Họ không ăn vận chải chuốt, nhưng chỉ cần thoáng nhìn cái vẻ
ung dung tự tại kia thôi cũng đủ để biết họ ở một thế giới khác, một thế giới mà cô không thể tiến vào, cũng chưa từng muốn bon chen.

Có lẽ do cô
ăn vận quá đỗi bình thường, hay có thể vì cô được Vu đại mỹ nữ dắt tay
tới mà mấy gã đàn ông cũng liếc sơ cô vài cái, rồi lại tiếp tục hát hò,
đùa giỡn. Phính Đình kéo thẳng cô tới bàn mạt chược, cầm chiếc điện
thoại đang đặt trên bàn lên – một chiếc Apple, nghe nói kiểu này còn
chưa được tung ra thị trường trong nước. Tuy cô không rành về mấy thứ đồ xa xỉ ấy, nhưng cũng từng được thấy qua ở các cửa hàng. Còn đang miên
man suy nghĩ, đã nghe Vu Phính Đình giới thiệu: “Đây là bạn thời đại học của em – Triệu Tử Mặc.” Cô gật đầu cười nhẹ, những người kia cũng xoay
qua gật đầu chiếu lệ. Anh là một trong số đó. Lúc này, anh đang ngồi
phía đối diện, chỉ nhìn lướt qua cô rồi lại hạ tầm mắt xuống. Khoảnh
khắc ấy cô đã thấy được đôi mắt anh, một đôi mắt hoa đào trong veo, ngời sáng.

***

Sau hôm đó,
Phính Đình nói sẽ thường xuyên liên lạc với cô. Cứ ngỡ đó chỉ là lời xã giao, ai ngờ đến hôm thứ ba cô nàng gọi thật. Lúc đó cô đang làm thêm
giờ, mới bắt máy lên, chưa kịp mào đầu gì hết đã nghe hỏi: “Cậu đang ở
đâu để tớ tới đón!” Cô vừa uống một ngụm nước vừa đáp: “Tớ đang làm thêm giờ ở công ty.” Vu Phính Đình nói chắc nịch: “20 phút nữa cậu gặp tớ ở
cửa công ty!” Không chờ cô kịp nuốt trôi ngụm nước, cô nàng đã cúp máy.

Hôm đó là
lần thứ hai cô nhìn thấy anh. Mới đầu cô cũng không để ý, cứ lên thẳng
xe của Phính Đình, khi xe dừng tại một biệt thự ở ngoại ô thành phố,
thấy anh bước ra khỏi chiếc xe màu bạc mới biết thì ra xe anh vẫn chạy
ngay phía sau. Hôm ấy cô mặc nguyên bộ đồ công sở, trông quá nghiêm túc
cho một buổi gặp mặt. Anh không nhìn cô, cô cũng chẳng chào hỏi. Xưa nay cô không quen chủ động, vả lại cô cũng biết thân biết phận nên chẳng
muốn dính dáng gì đến những kẻ tầng lớp trên như anh.

Nhưng dần
dà, cô cũng trở nên quen biết sơ sơ với họ. Thứ nhất là vì Phính Đình
rất tích cực rủ rê, mà chẳng lẽ lần nào cô cũng từ chối. Thứ hai, tuy đã là thổ địa vùng này, nhưng cô vẫn chỉ có một mình, khó tránh khỏi cảm
thấy cô đơn. Những đêm miệt mài làm thêm giờ, khi mệt mỏi cô thường nhìn qua bức tường kính tầng mười tám, lặng ngắm những ánh đèn lập lòe xa xa phía dưới, rồi ngẫm về sự lẻ loi chiếc bóng của mình mà cảm thấy tủi
thân. Những lúc như vậy, cô lại nâng chiếc chén mua lúc mới vào làm ở
công ty lên ngắm nghía. Đáy chén màu trắng ngọc, điểm xuyết những đường
hoa văn thanh nhã gợi nhớ về chiếc chén cha cô mua cho lúc nhỏ để đánh
răng, trên đó có in hình hai con bướm sặc sỡ đang giang cánh như muốn
bay. Lúc ấy cô thích cực kỳ, cho nên việc đầu tiên mà cô làm mỗi sáng

thức giấc là chạy ngay đi đánh răng. Về sau trong một lần hờn dỗi, cô đã ném nó vỡ, cánh bướm cũng tan đi từ đó. Nhưng sắc màu ấy, cánh bướm ấy
đã khắc sâu vào trong tâm trí cô, chẳng thể phai nhòa.

Nói là tụ
họp với bọn họ nhưng thực ra cũng chẳng có gì ngoài mấy vụ đi ăn uống,
hát hò, chơi mạt chược tiêu khiển. Càng đông thì càng vui, chẳng ai câu
nệ, giữ kẽ gì, buồn cười thì cứ cười thả phanh. Hôm đó anh hơi quá chén, hai bàn chật ních người nhưng không hiểu sao anh lại chỉ chỉ vào cô,
khiến cho ánh mắt mọi người đều đổ dồn lại: “Để cô ấy chơi thử xem, nếu
thua cứ tính cho tôi, thắng thì cô ấy giữ.” Thật ra cô có biết đánh mạt
chược, nhưng vì ngại nên không tham gia. Phính Đình biết vậy, nên đẩy cô vào bàn, cười: “Có Giang thiếu gia đây làm chỗ dựa, cậu cứ đánh đi. Sợ
gì ba gã đàn ông này!”

Mặc dù biết
chơi, nhưng cô không tinh thông. Tết năm nào về quê, cô dì chú bác hàng
xóm cũng đều tụ lại, lôi cô vào bàn mạt chược, song cũng chỉ để giết
thời gian mà thôi. Vì vậy mà chơi chẳng được bao lâu cô đã thua liền mấy ván. Một người trong đám đó quay đầu cười: “Giang thiếu, hôm nay tâm
trạng vui vẻ phải không, xì tiền ra đây mau!” Anh không để ý, chỉ chớp
chớp mắt. Bọn họ chơi tính điểm, cô không biết tiền cược nhiều hay ít,
cứ liên tiếp thua liểng xiểng. Đang định đánh bạch bì, chợt bên tai vang lên một thanh âm uể oải: “Đừng đánh quân đó!” Một làn hơi thở ấm áp phả vào tai cô. Ngẩng đầu lên, cô bắt gặp đôi mắt đen láy đang lấp lánh ánh cười của anh: “Đánh quân này này!” Đến khi giải tán, tổng kết điểm thì
hai người đã thắng được mấy vạn. Lúc đó cô mới biết thì ra họ cược mười
vạn một ván. Ba người kia cười mắng: “Cứ tưởng là cậu ngoan ngoãn xì
tiền, hóa ra cuối cùng là gạt tiền tụi này. Đầu tiên thì ru ngủ bọn tớ,
sau đó mới ra chiêu sát thủ, ghê thật!” Anh chỉ cười ôn hòa, kín đáo dúi tiền cho cô. Số tiền này bằng cả tháng lương của cô chứ đâu có ít ỏi
gì, nên cô không chịu nhận. Hai người đẩy qua đẩy lại mãi, cuối cùng
Phính Đình phải bước qua ghé vào tai cô nói: “Đừng làm trò cười, cậu cứ
cầm lấy đi, không sao đâu”

Cô sinh ra ở một thị trấn nhỏ có tên là Chiết Bắc, xứ Giang Nam lừng lẫy một thời,
phong cảnh bốn mùa xuân, hạ, thu, đông đều đẹp như một bức tranh sơn
thủy. Nơi ấy xưa nay có tiếng là mảnh đất lắm gạo nhiều tiền của Trung
Quốc, nhưng để nuôi hai chị em cô ăn học, mẹ cô đã phải rất tằn tiện.
Sau khi thi đậu vào một trường đại học nhất nhì thành phố, cô bắt đầu
lao vào làm kiếm tiền, quyết không để mẹ phải sống dè xẻn vì mình nữa.
Nỗi nhọc nhằn ấy, những kẻ sinh ra trong nhung lụa như họ sao có thể
hiểu được!

Ngày hôm
sau, cô hỏi Phính Đình số điện thoại của anh, tranh thủ lúc tan tầm bấm
máy gọi. Anh ngây ra một lúc mới trả lời: “Là cô à?” Giọng anh nghe nhẹ
nhàng như đang đọc bản tin dự báo thời tiết. “Anh có rảnh không?” Chỗ
anh hơi ồn. Cô nói dứt khoát, rằng số tiền kia nhiều hay ít với anh cô
không biết, nhưng với cô nó không hề nhỏ, ngày nào cũng mang khư khư
trong túi như vậy rất đáng lo, lỡ đâu gặp phải bọn cướp thì chẳng phải
dâng không cho chúng hay sao…

Mới đợi
trước cửa được một lát, chiếc xe màu bạc của anh đã trờ tới. Cô chợt
thấy sao mình ngốc đến vậy, chiếc xe hàng khủng đó mà đậu trước cửa công ty… người ta thấy được thì cô sẽ bị coi không ra gì mất, chỉ mong sao
không có đồng nghiệp nào nhìn thấy! Thế là cô cuống cuồng lên xe, nói:
“Đi thôi!” Hôm nay anh mặc một chiếc áo sơ mi màu hồng nhạt, thấy vẻ vội vàng của cô, không biết xảy ra chuyện gì, nhưng cũng mau chóng lái xe
đi.

Không khí
trong xe rất yên lặng, yên lặng đến nỗi có thể nghe rõ tiếng lốp xe sàn
sạt cọ vào mặt đường. Hai người không nói gì, vì họ vốn dĩ chẳng hề
quen. Cô cúi đầu mở túi xách, lấy ra một chiếc phong bì đưa cho anh. Anh chỉ nhìn lướt qua: “Gì vậy?” Thực ra thì anh rất rõ. Cô đỏ mặt, biết là mình quá chi li, nhưng điều nên làm thì vẫn phải làm: “Tiền này trả lại cho anh” Không nói gì, anh bẻ tay lái, đổi hướng đi. Xe dừng trước một
nhà hàng, họ mới đặt chân vào cửa, một người có vẻ là quản lý đã tất tả
ra đón: “Giang thiếu, cũng khá lâu rồi anh mới ghé lại đây đấy nhỉ, vẫn
ngồi chỗ cũ chứ?”

Từ bức tường kính tầng thứ năm mươi mấy này nhìn ra ngoài rõ hơn so với phòng làm
việc ở tầng thứ mười mấy của cô rất nhiều. Phía dưới, phố xá mới lên
đèn, cả thành phố ngập trong một thứ ánh sáng lấp lánh trông chẳng khác
gì một tòa thành không ngủ. Trên bàn, bộ chén dĩa trắng tinh có in hình
một con bướm rất sinh động, lại được tô thêm vẻ quý phái với đường viền
màu kim. Một cảm giác quen thuộc dâng lên trong cô, tay cô vô thức vuốt
ve hình cánh bướm. Nhưng cô biết nó không giống. Ngày đó ở thị trấn nhỏ
như vậy mà sắm sửa được đồ cũng đã là tiện nghi lắm rồi, vả lại mười mấy năm trước chén bát xù xì thô ráp hơn bây giờ nhiều… Nhưng trong trí nhớ cô, nó vẫn là thứ đẹp nhất, quý nhất. Bởi thời gian như nước chảy mây
trôi, đã qua đi thì chẳng thể nào lấy lại được…

Từ đó trở
đi, dù Phính Đình vẫn liên tục gọi điện tới rủ, nhưng cô đều một mực từ
chối. Tuy còn trẻ, nhưng cô cũng hiểu được thế nào là môn đăng hộ đối.
Đó là lời dạy của cha ông từ mấy ngàn năm trước truyền lại, nếu không
phải chân lý thì sao nó còn tồn tại được cho đến ngày hôm nay? Chung quy là cô không thể đi cùng đường với họ.

Mọi chuyện
rồi dần dần cũng lắng xuống. Cô phụ trách việc xuất nhập khẩu, ngày nào

cũng bận tới mức hoa mắt váng đầu. Tối hôm đó tâm trạng cô không vui,
mới bắt tay vào làm việc, Phính Đình lại gọi tới: “Tử Mặc… Cậu phải tới
cứu tớ… Tớ uống say rồi…” cô nàng líu lưỡi nói ra địa chỉ. Tử Mặc biết
chỗ đó, cô cũng đã tới mấy lần rồi.

Mới đẩy cửa
vào, đã thấy một bàn đầy người, tiệc cũng sắp tàn. Vừa thấy cô, Phính
Đình liền lảo đảo chạy tới: “Tới rồi à? Tử Mặc, giúp tớ tiếp rượu họ
đi.” Người đẹp quả đúng là người đẹp, đến cả uống say rồi vẫn còn đẹp
lung linh! Cô vội đỡ bạn ngồi xuống. Ngẩng đầu lên, bắt gặp anh như cười như không đang cầm một điếu thuốc đặt hờ lên khóe miệng, đáy mắt như nước hồ mùa thu nhìn thẳng vào cô, sâu đến khó lường.

Tửu lượng
của cô không tốt cho lắm, nhưng đối với một cô gái miền Nam thì uống
rượu cũng chẳng phải chuyện to tát gì. Đó là vì lúc còn bé, mỗi lần cha
uống rượu, ông thường đặt cô lên đùi, lấy đũa thấm thấm rượu cho cô nếm. Mỗi lần nhắc đến chuyện ấy, mẹ thường nói từ nhỏ cô đã dính lấy cha
rồi. Tuy sinh ra là con gái, nhưng cha vẫn nâng cô như nâng trứng. Lúc
cô ra đời, ở quê còn nặng tư tưởng trọng nam khinh nữ, may mắn thay cha
cô không chịu ảnh hưởng của lối suy nghĩ cổ hủ đó. Lớn lên, mỗi lần ra
ngoài xã giao, cô uống rất chừng mực, lúc cảm thấy mình sắp say rồi thì
nhất định không đụng đến một giọt nào nữa.

Không biết
có phải từ chuyện đánh mạt chược bữa nọ không mà khi tàn tiệc, mọi người đều “thức thời” cáo lui, cuối cùng chỉ còn lại mỗi cô và anh. Chưa bao
giờ anh thấy cô uống nhiều đến vậy. Bình thường mỗi lần người khác muốn
kính cô thêm, cô đều cười cười chuyển đề tài, bắt buộc lắm mới nhấp môi
vài cái, nhưng hôm đó cô lại uống quá nhiều, mắt cô mê mang, đi cũng
không vững nữa. Trời đã vào thu, không khí rất dễ chịu, gió ùa qua cửa
xe vờn tóc cô bay bay. Cô và anh vẫn thế, chẳng có gì để nói với nhau.
Anh không nói, cô cũng chẳng mở miệng. Anh cất lời, cô cũng chỉ đáp lại
vài câu – Cô tuyệt đối không chủ động bắt chuyện.

Anh nửa dìu
nửa ôm cô về nhà. Phòng khách cực nhỏ, phòng gian cực nhỏ, phòng bếp
cũng chẳng kém gì, tất cả cộng lại còn chưa bằng một phòng ngủ của anh.
Tuy vậy, căn nhà trông cũng đầy đủ tiện nghi. Xuống bếp lấy cho cô ly
nước, anh mới phát hiện hình như cô rất thích bướm – chén, bát, đĩa của
cô cái nào cũng in hình bướm. Mang nước trở lại phòng, anh thấy cô vẫn
còn say mê man, cứ thì thầm những câu không rõ ràng: “Đừng cho con uống
thuốc, con chỉ muốn uống nước thôi. Mặc Mặc muốn uống nước…” Thì ra tâm
thức cô đang quay trở về những tháng ngày ở Giang Nam, nơi đã sớm ăn sâu vào tâm trí cô, ngay cả trong cơn mê. Lúc bé, mỗi lần cảm mạo, người
nóng bừng bừng, cha mẹ đều túc trực bên cạnh, hết cho cô uống thuốc rồi
lại uống nước. Đây là lần đầu tiên anh nghe được giọng điệu làm nũng của cô, trong lòng không khỏi rung động. Nghe đồn người Giang Nam ăn nói
dịu dàng dễ nghe, nhưng trước giờ chỉ nghe cô nói đặc sệt giọng Bắc Kinh chính gốc, đây cũng là lần đầu anh nghe được chất giọng miền Nam êm ái
của cô.

Anh đỡ cô
dựa vào người mình, cẩn thận đưa ly lên miệng cô. Người cô nhẹ nhàng,
mềm mại như bông. Cô uống cạn ly nước trong chớp nhoáng, nhưng dường như vẫn chưa thỏa cơn khát, liền vươn lưỡi ra liếm môi mấy cái. Đầu anh ong lên một tiếng, máu toàn thân như dồn hết lên đầu. Cô lại rất vô tư,
chậm rãi đổi tư thế trong lòng anh, rồi hai cánh môi mềm mại phớt qua cổ anh… Trong thoáng chốc, mọi thành trì trong anh đều sụp đổ. Không ngăn
được mình nữa, anh cúi xuống hôn cô mãnh liệt…

***

Thật ra cô
biết anh rời đi lúc nào. Sau nửa đêm, cô đã tỉnh rượu. Con người ta là
vậy – say rồi hồ đồ, mượn rượu thổi phồng lá gan, chuyện gì cũng có thể
làm, nhưng đến khi tỉnh, nó lại xẹp xuống một cách thảm hại… Cho nên cô
không biết làm gì hơn ngoài việc nằm im giả vờ ngủ, chẳng dám động đậy.
Trời hừng sáng anh mới rời đi, hình như anh đẩy cửa ra rồi sau đó lại
quay lại, chẳng biết để làm gì. Cô không có gan mở mắt đối diện anh, vẫn nằm im. Qua một hồi lâu, anh đóng cửa phòng đi ra, sau đó cô nghe thấy
tiếng cửa chính đóng lại, lúc này mới đinh ninh là người đã đi thật.

Anh không
liên lạc gì với cô, đương nhiên là cô cũng thế. Số điện thoại lần trước
Phính Đình cho không biết đã bị cô tiện tay nhét vào mớ giấy tờ nào rồi. Cho tới bây giờ cô cũng chưa từng ôm ý nghĩ muốn dính dáng gì đến anh.
Thực ra thì cũng có gì đâu nào? Chẳng qua chỉ là một cuộc tình một đêm
mà thôi! Không phải cô phóng túng gì, thực ra đó là lần đầu tiên của cô. Chỉ có điều hôm đó là ngày giỗ cha, hàng năm đến ngày này cô đều cảm
thấy rất đau khổ, đặc biệt là sau khi nói chuyện điện thoại với mẹ. Cô
chỉ muốn về nhà ngay tức khắc, ăn hoành thánh mẹ nấu, gặm bánh tét mẹ
làm. Khi uống rượu, cô chỉ muốn uống cho thật say, nhưng lúc được anh
đưa về nhà, cô đã tỉnh táo chút ít. Chỉ thấy mình sao mà cô quạnh, mà
đơn độc, khao khát một chỗ dựa, cũng giống như dây tơ hồng quấn lấy đại
thụ để mượn chút sức sống. Cho nên nếu nói là anh lợi dụng cô, thà rằng
cứ nói cô cố tình dính lấy anh. Vả lại số bạn gái của anh chắc cũng phải xếp đủ mấy vòng tròn lớn, Triệu Tử Mặc cô thì là cái gì chứ? Làm chuyện gì cũng phải biết lượng sức mình – cô rất rành đạo lý đó.

Một hai
tháng sau, Phính Đình đánh điện tới: “Sao cậu lại mất tăm mất tích nữa
rồi? Chẳng thèm liên lạc gì với tớ cả. Tớ mới đi châu Âu một chuyến nên
dạo này không liên lạc với cậu được, nhưng chẳng lẽ cậu không biết gọi
cho tớ hay sao? Không thèm nhìn mặt tớ nữa à?” Thế là họ nối lại liên
lạc.

Lần gặp lại, trong tay anh ôm một cô nàng sắc nước hương trời. Anh chỉ ngẩng đầu
liếc cô một cái rồi thôi, đến cả một nụ cười mỉm cũng chẳng có. Vậy nên
cô cũng không qua chào hỏi. Cả đoàn người đông đúc cười cười nói nói,
tranh cãi nhặng xị, đến lúc quay lại đã chẳng thấy bóng dáng anh cùng cô nàng kia đâu, có lẽ là đi nơi nào đó vui vẻ rồi. Người đưa cô về còn
nói đùa: “Thằng cha đó không biết làm gì mà vội thế, làm như không giải
phóng được là hắn xỉu ngay tại chỗ không bằng ấy!”

Về nhà tắm
rửa xong xuôi thì cũng đã trễ. Dạo này trời lạnh, chui vào trong chăn ấm là cô chỉ muốn ngủ. Đang mơ mơ màng màng tiến vào giấc mộng, chợt nghe
có tiếng chuông điện thoại. Quờ quạng mãi trên đầu giường cũng không sờ
trúng nên cô hậm hực nói: “Chẳng biết thằng cha ngoại quốc chết dẫm nào
đây, cứ thích đi phá giấc mộng đẹp của người ta!” Làm nghề xuất nhập
khẩu, có một điểm mà cô đành cắn răng chịu đựng: lúc người ta ngủ thì cô đi làm, còn lúc người ta làm thì lại đến giờ ngủ của cô. Vậy mới nói,
kiếm được một miếng cơm cũng chẳng dễ dàng gì! Có điều dối thì nói mãi
cũng trôi, có một hôm mẹ cô gọi điện tới hỏi công việc có vất vả không,
cô nhanh nhảu đáp liền: “Vất vả gì đâu hả mẹ, con chỉ đi theo phiên dịch cho người ta thôi mà.” Chỉ cần làm cho mẹ yên tâm, dù phải nói dối cũng cứ coi như là công đức vậy.

Chuông reo
thêm vài lần, nhưng chắc đoán chừng đối phương không bắt máy nên im
luôn. Không còn phải lần mò tìm điện thoại trong bóng tối nữa nên cô thư thái chìm luôn vào giấc ngủ. Hôm sau mở máy, thấy một số lạ, cô cũng
chẳng bận lòng nữa.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Nhấn vào giữa màn hình để hiển thị Tùy chọn đọc.
Theo dõi Đọc Sách Hay trên Facebook, mỗi ngày chúng tôi cập nhật những cuốn sách, truyện hay nhất!

Có thể bạn thích