Mật mã Tây Tạng - tập 7
Chương 169: Trí Tuệ Tập Trung

Nhạc Dương nghĩ ngợi giây lát, dường như đã nghe nói đến ở đâu đó, nhưng nhất thời không sao nhớ ra được, chỉ có Mẫn Mẫn "ố" lên một tiếng, có vẻ như đã nghĩ ra rồi. Lữ Cánh Nam bèn cất tiếng giải thích: "Trong truyền thuyết có một loại lương thực thần kỳ, mỗi ngày chỉ ăn một nửa, đến hôm sau nó sẽ hồi phục lại nhiều như lúc ban đầu, vĩnh viễn không bao giờ ăn hết. Tuy rằng đây chỉ là một câu chuyện thần thoại, nhưng từ ngàn xưa đến nay, các nhà nông nghiệp và nhà khoa học vẫn chưa bao giờ ngừng công cuộc theo đuổi thứ lương thực vàng ấy. Tiêu chuẩn thấp nhất của họ, là hy vọng có thể tìm thấy hoặc lai tạo ra một giống cây nông nghiệp sản lượng cao, có thể thích ứng với các loại điều kiện khí hậu, có thể chống lại các loại bệnh và sâu hại, chỉ cần hai thứ cơ bản nhất là nước và ánh sáng mặt trời là có thể sinh trưởng hàng loạt. Chỉ cần rải hạt giống xuống, bất kể là trong sa mạc hay trên kẽ đá, chỉ cần có ánh sáng và nước là có thể sinh sôi, không cần phải cày ruộng, không phải bón phân, cũng không cần nhổ cỏ, trừ sâu hại, mà sản lượng lại cao đến kinh người. Có lẽ thoạt nghe cũng giống như chuyện thần thoại, nhưng rất nhiều nhà nông học, bao gồm cả Viên Long Bình, đều đã và đang lấy đó làm mục tiêu để lai tạo ra các loại cây nông nghiệp sản lượng cao khác nhau đấy."

Lúc ấy mọi người mới thực sự để ý nhìn cái túi trông có vẻ hết sức tầm thường trên tay đội trưởng Hồ Dương. Nhạc Dương nói: "Lẽ nào anh đã phát hiện ra..." Đội trưởng Hồ Dương cẩn thận cất túi hạt giống đi, đoạn nói với cả bọn: "Nếu thời gian cuối cùng được ghi chép lại, chính là lúc ngôi làng này bị tàn sát toàn bộ, vậy thì, nơi đây ít nhất cũng đã bỏ hoang bốn năm rồi. Nhưng mọi người thử nhìn ngoài ruộng mà xem, những cây mạ tốt tươi thế kia, có vẻ gì là bị ảnh hưởng không? Chúng vẫn sinh trưởng rất khỏe mạnh, tự sinh tự diệt, tự khô héo rồi lại tự mọc lên, bên cạnh ruộng đầy những cỏ dại mọc rất khỏe, thế nhưng lại chẳng thể làm gì được chúng. Mọi người có biết tôi đã phát hiện được điều gì nữa không? Đến cả trong những kẽ hở của các đường ray kim loại chạy khắp cánh đồng, chúng cũng vẫn có thể sinh trưởng được, chỉ cần nước và ánh sáng, thậm chí có thể sinh trưởng được cả trong kim loại, thế đã đủ làm đảo lộn ấn tượng truyền thống của chúng ta đối với thực vật rồi. Vì vậy, quyết không thể sai, đây chính là giống lương thực vàng mà người nơi đây dùng trí tuệ và thực nghiệm của không biết bao nhiêu đời, mới nghiên cứu ra được. Nếu như có một ngày, sa mạc Sahara biến thành khu ruộng cao sản mỗi mẫu có thể cho hơn nửa tấn lương thực, cả Bắc Cực phủ đầy tuyết trắng cũng như vậy, mọi người nói xem, thế có phải đã thay đổi cả thế giới rồi không?"

"Hả!..." Tiếng trầm trồ kinh ngạc khe khẽ phát ra từ những cái miệng há hốc. Lúc này mọi người đều đã cảm nhận được sức nặng của cái túi trên tay đội trưởng Hồ Dương, ai nấy đều nhìn anh với ánh mắt hân hoan pha lẫn kích động. Chỉ có Sean là thầm nhủ: "Đây chẳng qua chỉ là một trạm trung chuyển, nếu lên được tầng thứ ba, lúc ấy mới có thể phát hiện được những thứ đáng mang ra thế giới bên ngoài." Tuy nghĩ vậy, nhưng anh ta vẫn liếc một cái về phía ba lô của mình, bên trong ấy có những gốc cây cái còn hoàn thiện hơn các mẫu mà đội trưởng Hồ Dương thu thập được nhiều.

Pháp sư Á La nói: "Chúng tôi còn phát hiện được những khu nuôi gia cầm gia súc với quy mô lớn ở các gian công xưởng bên dưới. Người ở đây rõ ràng không phải lo lắng về chuyện thực phẩm bao giờ, năng lực sản xuất của họ cũng cao đến đáng kinh ngạc." Nói đoạn, ông đưa mắt nhìn sang phía Trương Lập.

Trương Lập lập tức tiếp lời: "Người Qua Ba ở đây chưa phát minh ra máy hơi nước, nhưng họ đã dùng thủy lực làm được việc tương tự; chiếc bánh xe nước ấy là nguồn cung cấp động lực cho cả thôn làng. Những đường ray kim loại chính là hệ thống giao thông trong làng, người Qua Ba đã lợi dụng cơ năng của dây cót để làm cho các cỗ máy tự động di chuyển trên đường ray, tự động thu nhặt nguyên liệu gỗ và đá, tự động gieo hạt giống và thu hoạch. Ở bên dưới, tôi còn phát hiện được rất nhiều đường ống dùng để vận chuyển vật tư và năng lượng. Tôi đã kiểm tra rất kỹ các gian nhà gỗ, phát hiện mỗi gian đều có một thiết bị tích trữ năng lượng bằng dây cót, dù bánh xe nước không thể chuyển động hoặc cần phải kiểm tra tu sửa, động năng tích trữ được cũng đủ cho mỗi nhà sử dụng hai ba ngày."

Đường Mẫn hỏi: "Năng lượng này được sử dụng làm gì vậy?"

"Chia làm hai loại, một dùng cho các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống, như tự động dệt vải, tự động thuộc da, làm giấy, mài giũa, gia công linh kiện...; loại thứ hai dùng để phòng vệ, có thể nói thế này, mỗi gian nhà gỗ ở đây đều là một thứ vũ khí tầm xa, hầu hết đều là vũ khí đối không, hiển nhiên những thứ vũ khí ấy có thể gây thương tổn rất lớn cho các loài mãnh cầm trên không trung. Có điều, trong một hai năm cuối, những người ở đây dường như đã điều chỉnh lại các vũ khí cạm bẫy, tăng cường phòng ngự dưới mặt đất." Trương Lập chỉ vào một ống sắt gỉ ở trong góc nói: "Chẳng lẽ mọi người chưa phát hiện ra, người dân làng này đã dùng nước máy rồi à? Còn cả mặt bàn cố định kia nữa, tôi ngờ rằng đó là một thiết bị tự động..."

Sean khẽ gạt mấy lọn tóc bạc lòa xòa trước trán, lắc đầu cười với điệu bộ khó tin: "Người ở đây chẳng phải làm việc gì hết."

Trương Lập gật đầu: "Đúng là người ở đây đã được giải phóng khỏi lao động chân tay ở mức độ rất cao, có lẽ còn giải phóng triệt để hơn người thành thị hiện đại chúng ta nữa ấy chứ. Hầu hết thời gian của họ, chắc là đều dùng để suy nghĩ. Mọi người có để ý, những điêu khắc trên phiến gỗ kia tinh xảo như thế nào không, không chỉ có một tầng, mà là tầng này lại chồng lên tầng khác; còn cả mấy tấm thangka kia nữa, tuy đã bị lửa thiêu mưa dầm, nhưng vẫn không thể che mờ được vẻ đẹp của chúng; còn cả vô số đồ gốm, có lẽ là tương tự như các loại cờ của chúng ta. Đương nhiên, tôi cho rằng thứ họ nghiên cứu nhiều nhất vẫn là cấu tạo của các máy móc, mọi người đều đã vào kho xem rồi đấy, bao nhiêu là công cụ để sản xuất máy móc, có lẽ một nghìn năm nay, những người dân làng Công Bố này đều nghiên cứu làm cách nào để chế tạo ra nhiều loại máy móc thực dụng hơn."

Đội trưởng Hồ Dương nói: "Tôi cảm thấy trình độ máy móc tự động hóa của họ vẫn ở mức phải nhờ đến thao tác của con người mới hoàn thành được. Chẳng hạn như, cho dù hệ thống công nghiệp hóa nông nghiệp của họ có giống chúng ta chăng nữa, có máy móc tự động gieo hạt và thu hoạch, có hệ thống tưới tiêu tự động, nhưng ít nhất công việc trừ cỏ cũng phải do con người hoàn thành chứ; muốn dệt vải, những việc như ươm tơ thì có thể dựa vào máy móc tự động hóa, nhưng nuôi tằm thì phải nhờ con người hoàn thành..."

Pháp sư Á La lắc đầu nói: "Không, trình độ tự động hóa ở đây e rằng còn cao hơn những gì chúng ta nghĩ nhiều. Vì người xưa hiểu được thuật điều khiển thao túng các loại sinh vật, nên họ hoàn toàn có thể làm triệt để, hoàn mỹ hơn nhiều. Như việc dệt vải chẳng hạn, người ta hoàn toàn có thể làm được việc cho lũ tằm ăn ở một nơi, sau đó lại đến một nơi khác kết kén, rồi giao phối đẻ trứng ở một chỗ khác nữa, như vậy, những máy móc tự động đó chỉ cần đến những chỗ cố định để nhặt tằm, sau đó rút tơ, dệt vải cũng có thể thực hiện một cách tự động, hoàn toàn giải phóng nhân lực khỏi công việc lao động." Nói tới đây, tâm cảnh đã tiềm tu nhiều năm của pháp sư Á La cũng không thể bình tĩnh trở lại, ông đột nhiên cảm thấy mình hiểu được một cách sâu sắc câu nói trống không trong cuộn da "thành tựu tập hợp cả thuật chế tạo cơ quan, cổ độc, và nuôi dưỡng sinh vật." Nhạc Dương nghe một hiểu mười, lập tức nói: "Cũng có nghĩa là, bò dê ở đây có thể tự đến chỗ ăn cỏ, bò sữa tự đến chỗ máy vắt sữa để vắt, con nào sắp chết thì tự đến chỗ đồ tể, sau đó thịt sẽ được chuyên chở trên đường ray đến từng nhà từng hộ một? Thậm chí... thậm chí... còn có thể cắt thành lát, thành miếng, tất cả đều do máy móc làm hết cả! Ối mẹ của tôi ơi, cuộc sống kiểu gì vậy chứ!"

Trác Mộc Cường Ba thở dài một hơi nói: "Đây chính là... cuộc sống ở Shangri-la."

Mẫn Mẫn cảm khái lặp lại một lần truyền thuyết về Shangri-la: "Ở đó hoa nở bốn mùa, nước chảy không ngừng, mùa màng lúc nào cũng đợi thu hoạch, quả ngọt lúc nào cũng treo trên cành... người ở đó dùng ý niệm chi phối tất cả mọi thứ ở thế giới bên ngoài, cảm thấy lạnh, quần áo sẽ tự động dày lên, nếu nóng sẽ tự động mỏng đi; muốn ăn thứ gì, thức ăn sẽ tự bay đến trước mắt, no rồi, thực phẩm sẽ tự động rời đi..." Cả bọn nhìn ra những căn nhà gỗ trong làng dưới bầu trời đang dần tối, cố tưởng tượng ra sự phồn hoa đã từng hiện diện ở nơi đây. Ai có thể ngờ được, trong thần thoại lại ẩn tàng sự thật, không ngờ lại như thế.

Cả bọn mỗi người một câu suy luận. Đối với những người đã từng thấy Đảo Huyền Không tự và địa cung Maya như họ, tất cả những thứ này tuy thật đáng kinh ngạc, song vẫn có thể lý giải được. Có điều, đối với Triệu Trang Sinh thì tất cả chẳng khác nào cổ tích. Anh ta chỉ biết trợn mắt lên, bần thần nhìn những thành viên khác đang nói chuyện như thể kể chuyện trong nhà mình vậy.

"Đợi chút! Đợi chút!" Cuối cùng Triệu Trang Sinh không chịu đựng nổi, lớn tiếng nói: "Hình như mọi người đang nói, trình độ kỹ thuật ở đây... cơ quan máy móc gì đấy, còn tiên tiến hơn cả các nhà máy của thế kỷ hai mươi mốt chúng ta sao?"

Mọi người ngừng thảo luận, nhìn Triệu Trang Sinh với ánh mắt ngạc nhiên, rồi lập tức sực hiểu ra, anh chàng này chưa từng tận mắt thấy những thành tựu của thuật cơ quan cổ đại, bây giờ vẫn chưa dám tin vào trí tuệ của cổ nhân. Pháp sư Á La nghiêm giọng nói với anh ta: "Ở một số mặt nào đó, thì đúng đấy."

"Chẳng... hạn, như?" Triệu Trang Sinh ngây người hỏi.

Nhạc Dương kéo vai Triệu Trang Sinh, bảo: "Thế này nhé, cơ sở của nền công nghiệp hiện đại của chúng ta bắt đầu từ cuộc đại cách mạng công nghiệp thế kỷ mười tám. Cậu có biết... đại cách mạng công nghiệp là cái gì không?"

Triệu Trang Sinh lắc đầu. Nhạc Dương bèn nói tiếp: "Đại cách mạng công nghiệp, tức là, chuyển đổi thao tác thủ công thành thao tác của máy móc, tiết kiệm nhân lực, mà nâng cao sản lượng, khiến toàn bộ quy trình sản xuất của cả thế giới thay đổi căn bản, sự phân phối vật chất và cấu trúc xã hội loài người cũng vì đó mà hoàn toàn thay đổi, cuối cùng thì diễn biến thành thế giới ngày hôm nay của chúng ta. Mà nhân tố quan trọng nhất của đại cách mạng công nghiệp, kỳ thực chỉ có hai điểm, máy hơi nước của Watt và... người châu u học được thuật luyện thép."

"Chuyện, chuyện này... thì can hệ gì?" Triệu Trang Sinh lầm bầm.

Nhạc Dương tiếp tục nói: "Kỳ thực, ý nghĩa cơ bản của máy hơi nước là: một thiết bị có thể liên tục cung cấp nguồn động năng ổn định, một nguồn động năng ổn định và liên tục là cơ sở của toàn bộ nền công nghiệp. Còn thép ư, thép là nguyên liệu cơ bản của mọi loại máy móc. Đại cách mạng công nghiệp muốn thành công, nhất thiết phải tìm được một loại nguyên liệu rắn chắc, chịu mài giũa mà có thể sử dụng lâu dài, khó bị hư hại, phương pháp luyện kim mới đã biến thứ gang vốn vừa nặng vừa dễ vỡ dễ gãy thành thép. Thế nhưng, hai điều kiện tiên quyết của cuộc đại cách mạng công nghiệp này từ hai nghìn năm trước đã được tổ tiên của chúng ta phát minh ra rồi."

"Hả?" Nét mặt Triệu Trang Sinh trở nên hết sức quái dị.

Trương Lập nhướng mày lên nói: "Cậu chẳng biết gì cả, dù sao cậu cũng chưa được học về thuật chế tạo cơ quan cạm bẫy một cách có hệ thống. Từ hơn hai nghìn năm trước, tổ tiên của chúng ta đã phát minh ra nguồn động năng có thể ổn định và liên tục lợi dụng sức gió và sức nước, trong đó thì động năng từ nước là ổn định nhất. Chẳng hạn như bánh xe nước, cối xay nước, đến ngày nay vẫn còn rất nhiều nơi sử dụng. Còn phương pháp luyện thép thì càng chẳng cần nói nữa, phương pháp luyện thép mới mà châu u áp dụng vào thế kỷ mười tám đã được phát minh và ứng dụng ở nước ta từ thời Xuân Thu Chiến Quốc rồi. Ban đầu là thép bách luyện, về sau, khi công nghệ phát triển, phương pháp luyện thép càng được cải tiến, cuối thời Hán đã phát minh ra một phương pháp luyện thép mới... Tức là nung nóng chảy sắt ra, rồi khuấy trộn trong lò để chưng khô, đây cũng chính là nguyên lý của công nghệ luyện thép ngày nay vẫn còn sử dụng. Lợi hại hơn nữa, tổ tiên chúng ta đã phát hiện ra, chất nước khác nhau có thể ảnh hưởng đến hiệu quả tôi thép, mà điều này thì gần đây các học giả châu u mới bắt đầu nghiên cứu. Sau này có cơ hội, cậu có thể đọc thử mấy cuốn như Hạ Hầu Dương toán kinh, Thần Khí Phổ, Cách vật thô đàm 4 gì gì đó ấy."

Nhạc Dương lập tức xen miệng vào, nói tiếp: "Giờ thì cậu đã hiểu chưa, sở dĩ tổ tiên chúng ta không thể khởi xướng được cách mạng công nghiệp từ hai nghìn năm trước, là vì tầm nhìn của con người thời đó không đủ rộng lớn. Mục đích ban đầu của việc phát minh ra sắt thép là để rèn đúc binh khí cho chiến tranh, bánh xe nước là để phục vụ sản xuất nông nghiệp, các phát minh của chúng ta đều chỉ để tự cấp tự túc; chứ không giống cách mạng công nghiệp ở châu u, mục đích là để bán sản phẩm cho cả thế giới với giá rẻ, tích lũy tư bản. Nhưng chỉ cần có những điều kiện tiên quyết ấy, thì bất cứ lúc nào cũng có thể bùng nổ cách mạng công nghiệp được, vì vậy khi thấy ở đây xuất hiện các loại máy móc tự động hóa với quy mô lớn, chúng tôi cũng không cảm thấy kinh ngạc. Dù sao thì chúng tôi cũng đã biết đến các cạm bẫy tự động mà Đạo quân Ánh sáng chế tạo từ một nghìn năm trước."

Đội trưởng Hồ Dương nói: "Tiểu Triệu à, cậu không cần phải kinh ngạc quá làm gì, phải biết rằng, các thành phần cơ bản của những máy móc cỡ lớn hiện nay như bánh răng, trục, dây xích, ròng rọc, đều do tổ tiên chúng ta phát minh ra từ hơn hai nghìn năm trước, người u châu chẳng qua chỉ dùng sắt thép thay thế cho gỗ mà thôi. Nếu nhìn lại lịch sử, cậu sẽ phát hiện ra rất nhiều sự việc tương tự, sách sử thường có rất nhiều ghi chép như vậy, chẳng hạn như có gì đó xuất hiện ở nước ta vào năm bao nhiêu bao nhiêu, sau đó người châu u phải sau bao nhiêu năm mới có phát hiện tương tự. Điều duy nhất khiến người ta cảm thấy đáng tiếc, chính là, những phát minh đó đã dần dần biến mất trong vô số những cuộc chiến loạn liên tiếp, nếu chẳng phải vì nạn đói bệnh dịch, thay triều đổi đại, chiến loạn liên miên, Trung Quốc chúng ta chắc đã nổ ra một cuộc đại cách mạng công nghiệp giống như ở Shangri-la này từ hơn nghìn năm trước rồi."

Pháp sư Á La nói: "Không chỉ có vậy, hơn một nghìn năm về trước, khi Thổ Phồn vừa quật khởi, đất nước này vừa khéo lại nằm giữa Trung Quốc và Ấn Độ. Thời đó, khi các dân tộc sinh sống trên cao nguyên vẫn còn ở trong hình thái xã hội tương đối lạc hậu, vị quân vương có tầm nhìn trác việt của Thổ Phồn đã bắt đầu học tập các phương thức sản xuất tiên tiến của hai đất nước văn minh lớn lân cận. Rất hiển nhiên, Đạo quân Ánh sáng đã hoàn toàn nắm bắt được các tri thức tinh túy nhất, trong đó bao gồm cả những phát minh và sáng tạo mà chính vùng đất sinh ra nó cũng đã quên lãng hoặc coi thường mà bỏ qua. Đạo quân Ánh sáng đã phát hiện và phát huy chúng đến mức tột đỉnh, cuối cùng sáng tạo nên một thần thoại vô địch. Những gì được bảo tồn trong Tứ Phương miếu, chắc hẳn là thành tựu cao nhất của tất cả những nền văn minh cổ đại thời bấy giờ, những gì ở trước mắt chúng ta đây, chẳng qua chỉ là một phần nhỏ mà thôi."

Lời của pháp sư Á La đã khiến mọi người phải suy nghĩ, cả Ba Tang cũng hiếm hoi để lộ vẻ hâm mộ trên nét mặt.

Lữ Cánh Nam thì lại nghĩ đến những lời pháp sư Á La từng nói trước đó: "Thuật cổ độc dung hợp cả thuật phù thủy của người bản địa, kỹ thuật ngoại khoa của Ấn Độ, và y thuật cùng dược liệu của Trung Quốc; phương pháp Mật tu kết hợp phương pháp thổ nạp nội gia của phương Đông với thể thuật yoga của phương Tây; và cả vũ khí trang bị được rèn đúc bằng phương pháp luyện thép vượt lên trên hẳn các quốc gia cùng thời đại; ngoài ra còn có thuật điều khiển thú vật, thuật mê ảo, thuật quan sát thời tiết, sự hiểu biết đối với cấu trúc sinh lý của cơ thể người chẳng khác nào bộ đội đặc chủng, phương thức hành quân như một đoàn quân ám sát, đó chính là Đạo quân Ánh sáng, Đạo quân Ánh sáng vô địch thiên hạ."

"Nếu nơi này đã phát triển tới mức ấy, sao có thể nói hủy diệt... là bị hủy diệt luôn vậy nhỉ?" Câu hỏi của Nhạc Dương lập tức kéo những người khác trở về với hiện thực. Câu hỏi ấy đích thực khiến người ta cảm thấy đau đầu. Theo những gì họ tìm hiểu, Đạo quân Ánh sáng có thể được coi là một tập hợp mạnh nhất thời bấy giờ, dẫu là một nghìn năm đã trôi qua, hậu duệ của họ không còn sức mạnh năm xưa của Đạo quân Ánh sáng nữa, nhưng bao nhiêu máy móc đó vẫn còn cơ mà. Nhìn mức độ gỉ sét của các cạm bẫy, rõ ràng bốn năm trước chúng vẫn có thể hoạt động bình thường, mà Trương Lập đã nói, chúng đều hết sức đáng sợ, muốn tàn sát cả làng chắc hẳn phải là một chuyện cực kỳ khó khăn mới đúng.

Trương Lập nói: "Thực ra cũng không khó, chỉ cần phá hoại các đường ống truyền dẫn năng lượng trước, vì trong các căn nhà đều có thiết bị tự động tích tụ động năng, trong mấy ngày sẽ không phát hiện ra điều gì dị thường, rồi toàn bộ hệ thống tự động sẽ tê liệt cùng một lúc. Có lẽ, điều này, mặt khác cũng cung cấp cho chúng ta thêm một số đặc trưng của hung thủ, chúng không thể phân biệt đâu là các cạm bẫy dùng để phòng ngự, đâu là máy móc dùng trong sản xuất, vì vậy chúng đã phá hoại tất cả các máy móc có thể tự động vận hành."

Đường Mẫn nhớ lại những sợi xích đã thấy ban sáng, gật đầu nói: "Hoặc có lẽ, bản thân chúng vốn sống chung với dân làng, rồi đột nhiên làm loạn tấn công, vì vậy tỉ lệ thành công càng cao hơn gấp bội."

Nhạc Dương nói: "Được, tạm thời chưa thảo luận việc chúng có sở hữu trí thông minh cao như thế hay không, tôi chỉ muốn hỏi, tại sao, chúng lại đột nhiên làm loạn tấn công?"

Không ai có thể trả lời câu hỏi ấy. Nhạc Dương lại tự phân tích một mình: "Tôi còn nhớ Cường Ba thiếu gia từng bảo, người Qua Ba điên ấy từng nói, nó đến rồi..."

Trác Mộc Cường Ba ngắt lời: "À, khi ấy người đó nói rất hàm hồ, chúng tôi cũng không rõ rốt cuộc là nó hay là chúng nó."

Nhạc Dương nói: "Dù là nó hay chúng nó, nếu đã là "đến rồi", thì tức là biểu thị, không phải vốn đã ở đây, mà từ phía trên, hoặc từ nơi nào khác đến chốn này. Sau đó mới là, "tất cả, đều bị cắn chết hết rồi". Tiếp đó, theo thông tin pháp sư đã tìm được trong đống cuộn da còn sót lại, thì có một người tên là Thứ Tháp Nhĩ, tuy rằng chúng ta không biết ông ta đã đi đâu, nhưng đoạn phía sau có viết, "khi máu tươi nhuộm đỏ bậc thang thánh miếu", từ đây chúng ta có thể suy đoán, nơi người đó đi chắc có lẽ là tầng thứ ba, chỉ có nơi đó mới có thần miếu; nhưng chuyện này lại làm tôi liên tưởng đến một vấn đề ở một cuộn da khác, đó chính là, tại sao sau khi cùng những người Qua Ba ở tầng bình đài thứ ba nghiên cứu chế tạo ra cái thứ được gọi là con rối hay con riếc gì đó, bọn họ lại không còn qua lại gì nữa? Tại sao người ở đây lại không thể đi lên tầng thứ ba? Sau đó là câu cuối cùng trong cuộn da ấy, người ở đây nói họ rốt cuộc cũng không thể chạy thoát khỏi vận mệnh? Không thể thoát khỏi vận mệnh gì? Người tên là Thứ Tháp Nhĩ ấy đã đi đâu? Từ giọng điệu trong cuộn da có thể thấy, bọn họ đã biết sẽ có chuyện gì xảy đến, hoặc có lẽ, từ những ghi chép của quá khứ, họ đã biết được trước đây đã xảy ra chuyện gì."

"Nếu là vậy, chắc chắn họ đã có biện pháp đề phòng." Đội trưởng Hồ Dương tỉnh táo đưa ra phân tích.

Nhạc Dương gật đầu: "Đúng thế, bọn họ đã có biện pháp đề phòng. Không phải Trương Lập đã nói rồi đấy sao, trong một hai năm cuối, họ đã điều chỉnh một phần các cơ quan bẫy rập đối không thành đối đất, chỉ đáng tiếc, những biện pháp đề phòng ấy không hề đủ để thay đổi số mệnh của họ. Nếu như nói, người sống ở đây là người bộ tộc Qua Ba, và họ vẫn còn giữ tập tục sống chung với sói và chó ngao, vậy thì tại sao ngoài những sợi xích bị giật đứt, lại không phát hiện ra bất cứ bộ xương sói hay chó ngao nào cả? Điểm này cũng khiến tôi rất nghi ngờ. Phải biết rằng, từ những tư liệu chúng ta tìm hiểu được, sói và chó ngao là những trợ thủ đắc lực nhất của người bộ tộc Qua Ba, sống chung với sói đã là tập tục kéo dài suốt mấy nghìn năm của họ. Khi tai họa sắp ập đến, họ dùng xích sắt để khóa cái gì lại chứ? Sự thực là, ngay từ đầu, chúng ta đã chỉ nghĩ đến sói hoặc chó ngao, mà không hề nghĩ đến, đằng sau sói hoặc chó ngao có ẩn giấu vấn đề gì hay không. Cho tới khi tôi nghe được pháp sư nói, người Qua Ba ở đây chia làm làng trên và làng dưới..."

Lữ Cánh Nam lập tức tiếp lời: "Cậu muốn nói là, hung thủ hủy diệt làng người Qua Ba này không chỉ là bầy sói hay loài sinh vật gì đó như vẻ bề ngoài biểu hiện, mà là..."

"Làng Qua Ba trên." Nhạc Dương gật đầu với giáo quan. "Tôi nhớ pháp sư Á La đã từng nói, chỉ có Thao thú sư mới có thể đối phó với Thao thú sư, cùng một lý lẽ như thế, chỉ có Đạo quân Ánh sáng mới có thể đối phó được với Đạo quân Ánh sáng. Tại sao những người này phải xích những trợ thủ đắc lực nhất của mình lại, rất có khả năng là vì họ sợ những người Qua Ba làng trên có kỹ thuật điều khiển thú cao minh hơn họ khiến chính lũ chó ngao và sói của mình trở ngược lại cắn chủ. Điều này cũng có thể giải thích tại sao họ chỉ hợp tác với người Qua Ba ở làng trên có một trăm năm, chắc chắn là đã xảy ra sự việc gì đó làm nảy sinh mâu thuẫn không thể nào hóa giải được."

Trác Mộc Cường Ba hỏi: "Là mâu thuẫn gì mà khiến cả làng bị tàn sát?"

Nhạc Dương lắc đầu: "Khó nói lắm, tôi chỉ có thể suy đoán, có lẽ... liên quan đến tín ngưỡng. Suy luận này, do tôi suy ra từ các thần thoại truyền thuyết về Shangri-la. Cường Ba thiếu gia và mọi người nghiên cứu về Shangri-la lâu hơn, tôi nhớ mọi người có nói trong lịch sử Shangri-la từng có một sự kiện phản bội bỏ trốn gì đó, không biết đoạn thần thoại ấy liệu có ẩn giấu lịch sử chân thực hay không..." Cơ hồ như lại nghĩ ra điều gì đó, anh đột nhiên ngây người, kế đó lại nói: "Hơn nữa, tôi cảm thấy, sự kiện ấy cũng đã gián tiếp ảnh hương đến thái độ của sứ giả đang ở bên ngoài, dẫu sao thì về mặt thời gian là chúng rất khớp nhau!"

Đạo quân Ánh sáng ra tay với Đạo quân Ánh sáng, người Qua Ba đối phó với người Qua Ba, Nhạc Dương đã nói ra suy luận mà pháp sư Á La và Lữ Cánh Nam không muốn nghe thấy nhất. Pháp sư Á La nãy giờ vẫn cứ liên tục khe khẽ lắc đầu, còn Lữ Cánh Nam thì nhướng mày suốt. Nhưng bọn họ cũng không thể phủ nhận rằng, Nhạc Dương đã đưa ra suy luận hợp lý nhất mà họ có thể nghĩ đến trong thời điểm này. Tín ngưỡng của Đạo quân Ánh sáng từng đổi đi đổi lại tùy theo tín ngưỡng của kẻ nắm quyền, dẫu cho là họ có thần linh của riêng mình, nhưng trong cả một quá trình lịch sử dài đằng đẵng, cùng một nhóm người có những tín ngưỡng khác nhau cũng không phải là điều không thể. Vấn đề quan trọng nhất là, muốn đối phó với hậu duệ của Đạo quân Ánh sáng hùng mạnh với những thứ cơ quan bẫy rập tiên tiến này, cơ hồ cũng chỉ có hậu duệ của Đạo quân Ánh sáng mới làm được mà thôi. Còn chuyện mâu thuẫn năm đó khiến sứ giả biểu hiện những thái độ hoàn toàn khác nhau đối với tín vật, dường như cũng rất hợp lý. Cộng với câu chuyện thần thoại kia, pháp sư Á La bất giác thầm thở dài trong lòng: "Nhạc Dương ơi là Nhạc Dương, cậu thật là đáng sợ, lẽ nào sự thực lại đúng như những gì cậu nói?"

Đây mới là lần đầu tiên Sean được thấy khả năng này của Nhạc Dương, lập tức kinh hãi đến toát mồ hôi lạnh, thầm nhủ: "Thằng nhóc này là cao thủ suy luận, xem ra sau này phải cẩn thận hơn nữa mới được, cũng may là hiện giờ nó chưa hề chú ý đến mình."

Nhạc Dương thì vẫn đang thầm thắc mắc trong lòng, thực ra anh còn rất nhiều câu hỏi vẫn chưa nêu ra hết, chẳng hạn như người ở đây có trình độ kỹ thuật cao như thế, thậm chí có thể bắt giết được cả loài sinh vật đáng sợ để chế tạo thuyền hình rắn, tại sao lại chịu bó chân rúc vào một góc, tại sao không mở rộng không gian sống ra? Ít nhất thì cũng có thể xây dựng một con đường an toàn thông ra biển được chứ?

Sau đó, họ lại phân tích mấy khả năng có thể dẫn đến việc người Qua Ba tàn sát thôn làng, có điều, vì trong những cuộn da còn sót lại kia không có các tư liệu về y thuật của người Tạng, cũng không có thông tin nào về Bạc Ba La thần miếu và đàn sói, nên tuy rằng cảm thấy hết sức tò mò với mọi sự vật hiện tượng của ngôi làng này, song kết quả bàn bạc cuối cùng vẫn là cần nhanh chóng rời khỏi nơi đây, tiếp tục tiến lên tầng bình đài thứ hai.

4 Bàn qua về ngọn nguồn sự vật.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Nhấn vào giữa màn hình để hiển thị Tùy chọn đọc.
Theo dõi Đọc Sách Hay trên Facebook, mỗi ngày chúng tôi cập nhật những cuốn sách, truyện hay nhất!
Mật mã Tây Tạng - tập 7 Chương 169: Trí Tuệ Tập Trung

Có thể bạn thích