Người đàn ông dựa lưng vào chiếc xe hơi, vừa kiên nhận rình chờ vừa đọc một quyển cẩm nang du lịch. Khi người phụ nữ thuê nhà trên tầng bốn ra ngoài đưa chó đi dạo, gã quảng quyển cẩm nang đi và lẻn vào trong trước khi cánh cửa sập kín lại.

Lên đến tầng trên cùng, gã đợi cho tiếng bước chân của mình hết vọng, và liếc mắt nhanh xuống khoang cầu thang để chắc chắn không có ai dưới đó. Gã xác định cánh cửa phòng 6B, rút trong túi ra một chùm móc rồi phá khóa.

Căn hộ ở góc tòa nhà có sáu cửa sổ. Các rèm cửa đã được hạ, không có nguy cơ bị một hàng xóm phía bên kia phố phát hiện. Gã nhìn giờ trên đồng hồ đeo tay rồi bắt đầu vào việc. Gã rạch nát đệm ngồi và tựa lưng của xô pha, lật tung thảm trải sàn, các khung ảnh treo trên tường, mở toang các ngăn kéo bàn làm việc và, sau khi đã đảo khắp căn hộ, tiếp tục màn lục lọi trong phòng ngủ. Bộ chăn ga cũng chịu chung số phận với xô pha, rồi đến lượt chiếc ghế bành ở trước cửa phòng tắm, và toàn bộ những gì có trong tủ com mốt đều đã hạ cánh xuống chiếc đệm bị rạch tan tành.

Khi nghe thấy tiếng bước chân trên thềm nghỉ cầu thang, gã nhanh chóng trở ra phòng khách, nắm chặt chuôi chiếc dao giấu trong túi và nép sát vào tường, nín thở. Sau cánh cửa, một tiếng gọi cất lên.

Gã từ từ rút vũ khí ra, và cố giữ bình tĩnh. Giọng nói đã ngưng nhưng tiếng thở vẫn vọng vào từ bên kia cánh cửa. Cuối cùng, tiếng thở cũng tắt và những bước chân xa dần.

Im lặng lại bao trùm, gã đàn ông cho rằng giờ mà đi theo thang bộ bên trong tòa nhà sẽ quá nguy hiểm. Cái người nghi ngờ sự có mặt của gã có thể đã gọi cảnh sát. Đồn cảnh sát nằm cách đây chỉ mấy con phố và thường xuyên có cảnh sát đi tuần.

Gã đợi thêm một lúc nữa rồi mới quyết định ra khỏi căn hộ. Gã nhận ra ô cửa sổ để hé ở cuối hành lang và ra chỗ cầu thang thoát hiểm chạy dọc mặt tiền tòa nhà. Đang là tháng mười hai, dù mùa đông năm nay tới muộn, thì cảnh cây cối sum suê cành lá cũng chỉ còn là một kỷ niệm xa xôi; nếu gã đi theo đường này xuống tận dưới phố, biết đâu rốt cuộc lại có ai đó thấy gã mà mong muốn của người đã thuê gã là không ai có thể đưa ra được dấu hiệu nhận dạng về gã. Xuống đến tầng dưới, gã bước qua lan can và lẻn vào cầu thang toàn nhà liền kề. Gã nhìn qua cửa sổ tầng sau, và, bằng một cú thúc khuỷu tay, đập vỡ ô cửa kính. Chốt cửa chạy trơn tru, đẩy khung cửa sổ lên không còn là việc khó. Gã oằn người chui vào trong tòa nhà bên cạnh và trở ra phố mà không gặp một ai.

Rồi gã rẽ sang phố khác khi đến góc giao và mất dạng.

*

Andrew cẩn trọng không bắt lời với cô gái cùng bàn từ khi cô đến ngồi trước mặt anh. Thay cho lời chào, anh vui lòng với một tín hiệu mà cô đã đáp lại khi ngồi xuống. Suốt hai tiếng qua, mỗi người đều chăm chú vào việc đọc của mình.

Điện thoại di động của Suzie Baker rung rung trên bàn. Cô đọc tin nhắn vừa hiện trên màn hình và lầm bầm một câu chửi thề.

- Có chuyện à? Rốt cục Andrew cũng cất lời hỏi.

- Vâng, tôi nghĩ thế, Suzie Baker nhìn thẳng vào mắt anh trả lời.

- Tôi có thể giúp gì không?

- Tôi nghi ngờ chuyện đó lắm, trừ phi anh đã nói dối tôi và anh là cảnh sát, cô vừa đứng dậy vừa đáp lời.

- Tôi không biết nói dối, nếu không thì cũng nói dối rất kém. Chuyện gì xảy ra với cô vậy?

- Cửa nhà tôi để mở, người quản lý chung cư tôi ở nghĩ rằng có ai đó ở trong nhà, ông ấy không dám vào và muốn biết tôi có nhà không.

- Nhưng cô đang không ở nhà, Andrew nói, ngay lập tức tự nguyền rủa mình sao có thể thốt ra một câu đối đáp ngớ ngẩn đến thế.

Suzie gật đầu và bước ra phía cửa, để quên cuốn sách.

Andrew chộp lấy cuốn sách và đi theo cô. Một cuốn sổ nhỏ trượt giữa các trang sách rơi xuống đất. Andrew nhặt nó lên, đặt cuốn sách trên quầy nước trước mặt Yacine, rảo bước và ra tới thềm trước tòa nhà thì vừa kịp nhìn thấy Suzie Baker bước lên một chiếc taxi.

- Thế giờ mày định làm gì đây, đồ khôn dở? anh thầm rủa.

Xe cộ di chuển dày đặc trên đại lộ Năm, ô tô nối đuôi nhau san sát và Andrew chắc chắn rằng đại lộ Bảy và Chín khó có khả năng thông thoáng hơn. Nếu đi tàu điện ngầm, anh sẽ tới nơi trước cô.

- Lại thêm một việc ngu xuẩn nữa! anh kết luận lúc lao xuống bến tàu.

Khi anh từ bến tàu điện bước lên phố 4, anh không ngừng tự hỏi làm thế nào giải thích cho cô gái cùng bàn hiểu chuyện anh biết địa chỉ nhà cô. Đầu óc anh chẳng nảy ra được ý tưởng nào.

Trong khi anh đã đến rất gần tòa nhà cô ở, Suzie Baker từ taxi bước xuống. Không suy nghĩ gì cả, anh gọi một câu “Cô gì ơi” khiến cô ngoảnh lại.

- Anh làm gì ở đây vậy?

- Cô để quên sách, tôi đã thay cô trả lại cuốn sách rồi, và lúc bước ra, tôi thấy cô lên taxi. Ý nghĩ một mình cô đối mặt với một kẻ đầu trộm đuôi cướp khiến tôi bất an. Thật là ngốc nghếch, tôi công nhận như vậy. Chắc chắn là cô đã gọi cảnh sát. Nhưng vì tôi không thấy có chiếc xe tuần tra nào trước cửa nhà cô, tôi cho rằng đây là một vụ cảnh báo nhầm và cảnh sát đã đi khỏi. Tôi cũng định làm việc tương tự. Tạm biệt cô, Andrew vừa nói vừa quay bước.

- Làm sao anh có địa chỉ nhà tôi? Cô hét lên sau lưng anh.

Andrew quay người lại.

- Tôi đã bắt một chiếc taxi, tôi boa cho tài xế một khoản để anh ta đuổi theo xe cô. Tôi đến cùng lúc với cô.

- Với tốc độ di chuyển của chúng ta, anh hẳn đã có thể xuống khỏi xe đó và lên xe cùng tôi.

- Tôi đã nghĩ đến chuyện đó, Andrew đáp, tôi không dám.

Suzie Baker quan sát người đối thoại.

- Tôi không gọi cảnh sát, cô nói cụt lủn.

- Thế người quản lý tòa nhà?

- Tôi đã gửi tin nhắn nói với ông ấy rằng khi đó tôi ở trong phòng tắm và tôi đã rất khổ sở mới đóng cửa lại được.

- Tại sao phải nói dối?

- Tôi mới sống ở đây chưa lâu, thuộc diện thuê lại nhà. Một trò không được đúng luật cho lắm. Người thật sự thuê căn phòng ấy là một cô bạn của tôi, cô ấy đang đi châu Âu vài tháng. Chỉ cần xảy ra chút chuyện là số tiền mọn tôi dúi cho ông ta hằng tuần sẽ không còn đủ để mua sự im lặng của ông ta nữa. Tôi không thể để mình bị tống cổ ra đường; anh có biết ở New York này tìm được một ngôi nhà thì khốn khổ đến thế nào không?

- Đừng nói với tôi về chuyện đó!

Suzie Baker thoáng chần chừ.

- Anh có muốn đưa tôi lên nhà không? Sẽ là nói dối nếu bảo anh rằng tôi thấy yên tâm. Nhưng anh đừng cho là bị ép buộc, tôi không muốn anh gặp nguy cơ gì cả.

- Tôi không nghĩ có nhiều nguy cơ đâu. Nếu cửa nhà cô bị phá, tên trộm hẳn đã cao chạy xa bay từ lâu rồi. Với lại tôi đang ở đây, vậy nên tôi cũng sẽ hữu ích cho chuyện gì đó. Đi thôi, anh vừa nói vừa kéo cánh tay Suzie. Tôi sẽ vào trước.

Khi nhìn cảnh tượng trong phòng khách, Andrew ra lệnh cho Suzie đợi anh dưới thềm nghỉ. Anh nhìn xung quanh và rút khẩu Walther TPH cỡ nhỏ mà anh đã trang bị cho mình sau khi xuất viện.

Năm tháng trước thôi, bất kể ai mang vũ khí theo người có lẽ đều bị anh coi là đồ khùng. Nhưng sau vụ tấn công bằng dao, mất gần như hết máu trên xe cứu thương, và phải nằm viện hai tháng trời, anh cho rằng thủ sẵn một vũ khí trong túi áo vest là một việc hoàn toàn chính đáng. Kẻ sát hại anh vẫn nhởn nhơ chạy.

Anh vào trong căn hộ, lấy bàn chân đẩy cánh cửa phòng ngủ và quan sát hiện trường.

Anh nghĩ Suzie hẳn sẽ sốc khi thấy “nhà mình” lộn tùng phèo như thế này, và cho rằng sẽ tốt nếu anh ở bên cô khi cô bước vào. Anh quay người lại, và giật nảy mình khi thấy cô ngay sau lưng.

- Tôi đã bảo cô đợi bên ngoài rồi mà!

- Tôi không quen vâng lời. Anh có thể cất cái của nợ này đi được không? Cô vừa nhìn chằm chằm khẩu sung lục vừa nói.

- Được, tất nhiên rồi, Andrew trả lời, cảm thấy ngượng với thứ vũ khí cầm trên tay.

- Bọn chúng không nương tay cho lắm, Suzie thở dài. Như bãi chiến trường!

Cô cúi xuống và bắt đầu thu nhặt đồ đạc tung tóe khắp phòng, quay lưng lại với Andrew, anh bỗng cảm thẩy lúng túng khi quan sát cô như vậy.

- Tôi có thể giúp chứ? Anh vừa nói vừa ngồi xuống nhặt một chiếc áo chui đầu.

- Vâng, anh cứ để nó trên giường, tôi sẽ phân loại sau.

- Cô không kiểm tra xem bọn chúng cuỗm mất thứ gì của cô à?

- Ở đây làm gì có cái gì mà lấy. Không tiền không trang sức, tôi có mang theo thứ gì đâu. Anh vào bếp lấy đồ uống cho chúng ta được không? Tôi sẽ tranh thủ dọn dẹp những đồ hơi riêng tư một chút, cô vừa nói vừa ra hiệu để Andrew nhận thấy anh đang giẫm chân lên một chiếc áo nịt ngực.

- Đương nhiên rồi, anh đáp.

Anh trở lại không lâu sau đó với một cốc nước, Suzie đón lấy uống liền một hơi.

- Cái kẻ hoặc những kẻ đã tới thăm thú nhà cô không tìm tiền bạc và nữ trang lại càng không.

- Điều gì khiến anh nói như vậy?

- Tên trộm nhà cô không hề đặt chân vào bếp. Đa số mọi người thường giấu đồ quý giá trong một lon soda ngụy trang dưới đáy một hộp ngũ cốc hoặc trong một túi ni lông giấu sau các khay nước đá.

- Có thể hắn bị người quản lý tòa nhà phá ngang.

- Lẽ ra hắn phải bắt đầu từ đó, và tại sao hắn lại rạch tung xô pha và nệm nhà cô? Cái thời người ta khâu vàng trong đệm đã qua lâu rồi, bây giờ đó không phải là nơi phụ nữ giấu nhẫn vàng hay bông tai. Như thế sẽ hơi bất tiện nếu muốn lấy chúng trước lúc ra ngoài hẹn hò buổi tối.

- Anh định làm trộm khi gặp thời à?

- Tôi là phóng viên, trong nghề của tôi cần phải tò mò với mọi thứ. Nhưng tôi gần như dám chắc về điều mình dự đoán. Cảnh tượng mà tôi đang nhìn thấy xung quanh không giống với một vụ trộm. Kẻ đã gây ra cảnh lộn xộn này đang tìm kiếm một thứ cụ thể nào đó.

- Vậy là hắn vào nhầm căn hộ, hoặc nhầm tòa nhà rồi. Cả phố này các tòa nhà đều trông na ná như nhau.

- Cô sẽ phải mua lại giường và xô pha đền cho bạn cô.

- May mà cô ấy chưa về ngay. Cứ nhìn hầu bao của tôi thì chuyện mua bán này còn phải chờ thêm chút nữa.

- Tôi biết một chỗ ở khu phố Tàu có thể tìm được những món đồ cũ giá hời lắm, tôi có thể đưa cô tới đó, nếu cô muốn.

- Anh thật là tốt bụng, Suzie vừa đáp vừa tiếp tục dọn dẹp. Giờ anh có thể để tôi lại một mình được rồi, tôi đồ rằng anh còn nhiều việc phải làm.

- Không có gì khẩn cấp cả.

Suzie vẫn quay lưng lại với anh từ nãy đến giờ, sự bình tĩnh và nhẫn nại của cô khiến Andrew thấy hiếu kỳ, nhưng cũng có thể cô cố giấu cảm xúc của mình. Làm sao biết được niềm kiêu hãnh trú ngụ chốn nào. Andrew hẳn cũng sẽ xử sự tương tự.

Anh ra phòng khách, nhặt các khung ảnh lên và bắt đầu trả chúng về lại chỗ cũ, cố gắng nhận biết nơi chúng đã được treo dựa vào dấu vết để lại trên tường.

- Những bức ảnh này là của cô hay của bạn cô?

- Của tôi, Suzie hét lên từ phòng bên cạnh.

- Cô leo núi à? Anh hỏi trong lúc ngắm một bức ảnh đen trắng. Đúng là cô đang treo mình trên ngọn núi này sao?

- Vẫn là tôi đấy, Suzie trả lời.

- Dũng cảm thật, tôi mới leo lên thang đã thấy chóng mặt rồi.

- Độ cao thì tập là quen thôi, vấn đề là phải rèn luyện.

Andrew cầm một khung ảnh khác và ngắm bức ảnh chụp Suzie và Shamir dưới chân một núi đá.

- Thế người đàn ông đứng cạnh cô thì sao?

- Hướng dẫn viên của tôi.

Nhưng Andrew đã nhìn thấy, trên một bức ảnh khác, anh chàng hướng dẫn viên đang ôm ghì Suzie.

Trong lúc cô dọn dẹp phòng ngủ, Andrew cố gắng hết sức để trả lại chút trật tự cho phòng khách. Anh quay trở vào bếp, mở các ngăn tủ bếp và tìm thấy một cuộn băng dính, loại dùng để đóng thùng các tông. Anh dán đè băng dính lên các chỗ bị rạch trên xô pha và chiêm ngưỡng thành quả công việc của mình.

Suzie xuất hiện sau lưng anh.

- Không được hoàn hảo, nhưng cô có thể ngồi xuống ghế mà không phải né tránh gì nữa.

- Tôi có thể mời anh bữa trưa thay cho lời cảm ơn chứ?

- Thế còn hầu bao của cô?

- Tôi hẳn vẫn còn có thể đãi anh một đĩa xa lát.

- Tôi ghét mọi thứ màu xanh, đi thôi, tôi đưa cô đi ăn bít tết. Cô cần phải có sức.

- Tôi ăn chay.

- Không có gì là hoàn hảo, Andrew tuyên bố. Tôi biết một quá Ý rất gần đây. Các món mì đều là đồ chay, được chứ?

Cô phục vụ của quán Frankie’s chào Andrew và để anh chọn bàn.

- Anh là khách quen à?

- Cô là nghề gì vậy, cô Baker?

- Nghiên cứu.

- Nghiên cứu gì?

- Thứ có lẽ sẽ khiến anh chán ngấy đến tận cổ. Thế anh là phóng viên gì?

- Kiểu phóng viên luôn thích chõ mũi vào chuyện người khác.

- Bài báo gần đây mà tôi có thể đọc được?

- Ba tháng nay tôi chưa viết bài nào.

- Vì sao?

- Đó là một câu chuyện dài hẵn cũng sẽ khiến cô chán ngấy. Anh chàng trong ảnh không chỉ là hướng dẫn viên của cô, phải không?

Suzie quan sát Andrew, cố đoán định đường nét khuôn mặt anh dưới bộ râu rậm rì.

- Anh trông như thế nào trước khi bị bộ râu này che lấp hết?

- Trông khác. Cô không thích à?

- Tôi không biết, tôi không tự đặt cho mình câu hỏi ấy.

- Như thế này cũng hơi ngứa ngáy, nhưng tiết kiệm được vô khối thời gian buổi sáng, Andrew vừa nói vừa lấy tay xoa mặt.

- Shamir là chồng tôi.

- Đã ly hôn, cô cũng vậy sao?

- Ở góa.

- Tôi xin lỗi, tôi hay xía vào chuyện không liên quan đến mình quá.

- Câu hỏi của anh không phải là thiếu tế nhị.

- Không, nó thiếu tế nhị mà. Chuyện đó xảy ra như thế nào? Ý tôi là cái chết của anh ấy.

Andrew ngạc nhiên khi thấy Suzie bật cười.

- Cái chết của Shamir chẳng có gì buồn cười, và tôi vẫn chưa hết thời gian để tang anh ấy, nhưng cái người cứ sợ mình thiếu tế nhị thì mới buồn cười! Anh rất vụng về, tôi thích điều đó, tôi nghĩ vậy. Thế anh thì sao, điều gì không suôn sẻ trong chuyện vợ chồng anh?

- Tôi á? Cuộc hôn nhân của tôi chắc phải thuộc hàng ngắn ngủi nhất. Kết hôn vào 12h trưa và chia tay vào 8h tối.

- Tôi thắng anh rồi. Cuộc hôn nhân của tôi còn kéo dài chưa tới một phút.

Vẻ khó hiểu hiện trong mắt Andrew.

- Shamir mất ngay sau cái phút chúng tôi trao lời thề nguyền.

- Anh ấy bị bệnh hiểm nghèo à?

- Khi ấy chúng tôi đang treo mình trong khoảng không. Anh ấy đã cắt dây leo nối tôi với anh ấy để cứu mạng tôi. Nhưng nếu anh không thấy bất tiện, tôi muốn chuyển chủ đề.

Ánh mắt Andrew chìm đắm vào đĩa thức ăn. Anh im lặng một lúc rồi ngẩng lên.

- Cô đừng nghĩ tôi có ý gì không đúng đắn trong điều mà tôi sắp đề nghị với cô đây. Cô không thể ngủ ở nhà tối nay. Trước khi chi tiền thay ổ khóa mới. Tên trộm đột nhập nhà cô có thể sẽ quay lại. Tôi có một căn hộ nhỏ mà tôi không ở, rất gần đây. Tôi có thể giao chìa khóa cho cô. Ba tháng nay tôi ngủ ở nhà một anh bạn. Thêm một vài đêm nữa cũng không có gì to tát cả.

- Vì sao anh không ngủ ở nhà mình nữa?

- Tôi sợ ma.

- Anh mời tôi ở lại một căn hộ bị ma ám sao?

- Bóng ma của vợ cũ tôi chỉ ám ảnh trong đầu tôi thôi, cô không phải sợ gì đâu.

- Tại sao anh lại làm như thế với tôi?

- Tôi làm điều này chính là cho tôi, cô chấp nhận đã là giúp tôi rồi. Vả lại chuyện này cũng chỉ kéo dài vài bữa thôi, thời gian…

- Để tôi cho thay ổ khóa và mua một chiếc đệm khác. Tôi đồng ý, Suzie nói. Tôi đã không nghĩ đến điều đó, nhưng bây giờ, khi anh nhắc đến, ý nghĩ phải ngủ ở nhà anh đêm nay khiến tôi hơi hoảng. Tôi xin nhận tấm lòng hiếu khách của anh, hai đêm thôi, không hơn, tôi hứa với anh điều đó. Ngày mai tôi sẽ làm việc cần làm. Và tôi sẽ mời anh bữa trưa nay, đấy là điều tối thiểu tôi làm được.

- Nếu cô muốn như vậy, Andrew đáp.

Sau bữa trưa, anh đưa Suzie về tận chân tòa nhà anh ở và giao chìa khóa cho cô.

- Nhà tôi trên tầng 4. Chắc là vẫn sạch sẽ thôi, người giúp việc vẫn đến đều đặn, và vì đã lâu tôi không bước chân về nhà nên bà ấy cũng không vất vả lắm. Nước nóng chảy không đều, nhưng một khi đã chảy thì cô nên cẩn thận, nóng lắm đó. Cô sẽ tìm thấy khăn tắm trong chiếc tủ ở cửa vào. Cứ tự nhiên như ở nhà.

- Anh không giúp tôi tham quan nhà cửa sao?

- Không, tôi không thích.

Andrew chào Suzie.

- Tôi có thể xin số điện thoại của anh được chứ? Để còn trả chìa khóa cho anh…

- Cô cứ mang trả tôi ở thư viện. Ngày nào tôi cũng tới đó.

*

Suzie xem xét kỹ căn hộ của Andrew, thấy nó khá xinh xắn. Cô thấy bức ảnh chụp Valérie, lồng trong khung đặt trên lò sưởi.

- Chính là cô đã làm trái tim anh ta tan nát sao? Ngốc nghếch quá, tôi những muốn chúng ta đổi vai cho nhau đấy. Tôi sẽ trả lại anh ta cho cô, có thể, nhưng sau này nhé, giờ tôi đang cần anh ta.

Và Suzie lật ngược khung ảnh úp vào tường rồi đi xem phòng ngủ.

Đến giữa buổi chiều, cô ghé qua nhà lấy ít đồ dùng.

Bước vào nhà, cô cởi áo khoác, bật đèn và giật này mình khi thấy người đàn ông ngồi bên bàn làm việc của cô.

- Tôi đã nói “lật tung lên” chứ không phải là phá nát mọi thứ! Cô vừa nói vừa khép cửa lại.

- Anh ta đã giao chìa khóa nhà cho cháu. Với mục đích thu hút sự chú ý của anh ta, như thế khá thành công đấy chứ. Cháu nên cảm ơn ta mới phải.

- Giờ ông đang theo dõi tôi đấy à?

- Tò mò thuần túy. Hiếm khi nào có người nhờ vả ta đi trộm chính nhà họ, thế nên đương nhiên ta phải tự đặt nghi vấn.

Suzie vào trong bếp, mở tủ tường, lấy một hộp ngũ cốc trên ngăn tủ, rút ra một tập tiền mặt giấu dưới đáy hộp và quay trở lại phòng khách.

- Sáu nghìn, thù lao cho việc ông đã giúp, ông cứ đếm đi, cô nói trong lúc đưa tiền cho ông.

- Cháu muốn gì ở gã đó chứ? Arnold Knopf gặng hỏi.

- Nói với ông chuyện đó không nằm trong vụ dàn xếp giữa chúng ta.

- Vụ dàn xếp của chúng ta sắp xong rồi. Ta đã làm điều cháu yêu cầu. Và mấy ngày qua, ta đã tới thư viện nhiều hơn toàn bộ thời gian tới thư viện của cả đời ta cộng lại, ngay cả khi ta cũng thích đọc một cuốn sách hay. Nếu không vì lòng kính trọng dành cho ông ngoại cháu, có lẽ ta sẽ chẳng bao giờ rời khỏi nơi dưỡng già của mình.

- Đây không phải là vấn đề về lòng kính trọng, mà là chuyện ân huệ. Đã bao nhiêu lần ông ngoại tôi cứu ông?

- Baker, cháu còn không biết nhiều chuyện.

- Hồi tôi còn nhỏ, ông gọi tôi là Suzie.

- Nhưng giờ cháu đã lớn.

- Tôi xin ông đấy Arnold, từ khi nào người làm nghề như ông được dưỡng già vậy? Và đừng nói với tôi rằng nhờ làm vườn mà một người ở độ tuổi như ông giữ được sức vóc thế này nhé.

Arnold Knopf tỏ vẻ bực bội.

- Tại sao lại chọn anh ta chứ không phải một gã nào khác?

- Gương mặt anh ta trên báo khiến tôi có cảm tình, tôi luôn tin tưởng vào linh cảm của bản thân.

- Cháu mưu mẹo hơn thế. Chính bởi vì anh ta sém chết, cháu tưởng rằng điều đó khiến trí óc anh ta trở nên nông nổi đến mức cháu có thể điều khiển theo ý mình sao.

- Không, không hẳn như thế. Là vì anh ta đã sém chết để có thể đi đến cùng cuộc điều tra của mình và vì chẳng điều gì có thể khiến anh ta chùn bước. Anh ta sẽ lại như thế, chỉ là vấn đề thời gian mà thôi. Tìm cho ra sự thật giống như ma túy đối với anh ta, chúng tôi giống nhau.

- Về chuyện đó thì ta chẳng biết gì, có thể cháu nói đúng, nhưng cháu tự đánh giá mình cao quá đấy, Suzie. Và cuộc tìm kiếm ám ảnh tâm trí cháu đã khiến cháu tốn kém quá nhiều. Có lẽ cháu cũng nên bỏ qua thôi. Cháu chưa quên chuyện xảy ra với người mà cháu đã kéo vào kế hoạch của mình chứ?

- Ông về đi, Arnold. Ông cầm tiền rồi, chúng ta xong nợ.

- Ta đã hứa với ông ngoại cháu là sẽ để mắt tới cháu. Chúng ta sẽ chỉ xong nợ vào ngày mà ta từ giã cõi đời. Tạm biệt, Suzie.

Và Arnold Knopf đi khỏi.

*

Sáng hôm sau, Andrew đến dự cuộc họp ban biên tập đúng giờ. Thậm chí anh còn ghi chép một chút, điều đó không thoát khỏi mắt cô tổng biên tập.

Ra khỏi phòng họp, cô thu xếp để đi chung thang máy với anh.

- Anh có kế hoạch gì à, Stilman?

- Xin lỗi, ý cô là?

- Buổi họp sáng nay, tôi bắt gặp ánh mắt của người mà đã lâu lắm rồi tôi không còn thấy.

- Tôi mừng cho cô vì điều đó, là ai vậy?

- Anh đang điều tra vụ gì đấy? và đừng có nói lại với tôi về Nam Phi, tôi không tin chuyện đó lấy một giây.

- Tôi sẽ nói với cô vào lúc thích hợp, Andrew trả lời.

Cánh cửa thang máy mở ra. Andrew đi về hướng có phòng làm việc của anh, chờ cho Olivia Stern đi khỏi rồi quay ngược lại để xuống tầng hầm theo lối cầu thang thoát hiểm.

Anh dành cả buổi sáng trong phòng lưu trữ. Anh tìm thấy dấu vết của một Suzie Baker, công chứng viên ở Dexter, một Suzie Baker giáo sư tâm lý học tại đại học James Madison bang Virginia, một Suzie Baker nhân viên hành chính tại đại học Warwick, và hai chục Suzie Baker khác. Nhưng sau khi sử dụng các công cụ tìm kiếm có thể nghĩ tới, anh vẫn không nhặt được một mẩu thông tin nào về cô gái Suzie Baker mà anh đã gặp tại thư viện. Và điều đó khiến trí tò mò của anh trỗi dậy hơn cả khi tìm được gì đó liên quan đến cô. Ở thời đại mạng xã hội tràn ngập như vây giờ, không thể có chuyện một người hoàn toàn không để lại dấu vết nào trên mạng Internet.

Andrew nghĩ đến chuyện gọi sang cho một đầu mối liên lạc của anh trong ngành cảnh sát, nhưng anh chợt nhớ ra cô gái ngồi cùng bàn với mình trong thư viện đang thuê lại căn hộ. Không có lý do nào mà hợp đồng điện và gaz lại để tên cô cả. Không có giấy tờ hành chính thì không thể tìm hiểu sâu hơn được. Cái cô Suzie Baker mà anh đã giao chìa khóa nhà vẫn hoàn toàn vô danh; có điều gì đó bất thường trong chuyện này và Andrew biết rằng khi bản năng của mình đã báo động, anh hiếm khi nhầm lẫn.

Một người bạn thời trung học của anh hiện làm việc trong sở thuế thành phố. Anh nhấc điện thoại và được anh bạn cũ cho biết căn hộ 6B tòa nhà số 65 phố Morton thuộc sở hữu của một công ty Na Uy. Một danh tính thật là kỳ cục đối với một cô bạn gái mạo xưng đang đi châu Âu vài tháng. Andrew đứng dậy để hâm nóng chân cẳng và suy nghĩ.

- Cô là ai vậy, Suzie Baker? Anh lẩm bẩm khi ngồi trở lại trước màn hình máy vi tính.

Anh gõ “Tai nạn Mont- Blanc” trên bàn phím và thấy một danh sách các thảm họa xảy ra ở ngọn núi này.

Một mục nhỏ trên website một tờ nhật báo của Pháp thông tin về vụ can thiệp của một ê kíp cứu hộ hồi tháng Giêng năm ngoái đã cứu được một phụ nữ leo núi bị một cơn bão khiến cho kẹt lại trên độ cao 4.600 mét trong hai đêm liền. Nạn nhân, đau đớn vì cước và mất nhiệt, đã được đưa về trung tâm y tế Chamonix. Andrew liếc nhìn đồng hồ treo tường. Đang là 11h sáng ở New York, tức là 5h chiều ở Pháp. Anh đợi điện thoại nhiều phút liền mới được nối máy với ban biên tập tờ Dauphiné, nhưng anh không hiểu nổi một lời nào mà người ở đầu dây bên kia nói, dù người đó đã cố gắng trao đổi với anh bằng tiếng mẹ đẻ của anh. Andrew chuyển sang một cuộc gọi khác, tới trung tâm y tế Chamonix và muốn nói chuyện với giám đốc, tự xưng đúng chức danh hiện tại, tức là phóng viên tờ The New York Times. Người ta bắt anh chờ, người ở đầu dây bên kia ghi lại số điện thoại mà họ có thể gọi lại cho anh rồi người đó gác máy. Andrew nghĩ là yêu cầu của mình đã bị bỏ xó và chắc là phải quấy rồi bệnh viện này trước khi người ta muốn thông tin cho anh. Nhưng 30 phút sau, điện thoại của anh đổ chuông, Edgar Hardouin, giám đốc trung tâm y tế đại học Chamonix, muốn biết ông có thể giúp gì được anh.

Andrew nói chuyện với ông về Suzie Baker, tuyên bố rằng anh đang viết một bài về những chăm sóc tận tình dành cho du khách Mỹ khi tới châu Âu. Ông giám đốc không nhớ gì về ca bệnh này. Để biện minh, ông giải thích bệnh viện của ông thường tiếp nhận một lượng lớn người bị thương khi leo núi, nhưng ông hứa sẽ tìm kiếm lại bệnh án và gọi lại cho anh vào ngày mai.

Sau đó gác máy, Andrew tới thư viện.

*

Khi đến phòng đọc, Suzie nhận thấy chỗ ngồi đối diện vẫn để trống. Cô đặt quyển sách xuống và đi ra căng tin. Andrew đang đọc báo trong lúc uống cà phê tại một bàn gần cửa sổ.

- Trong kia cấm dùng đồ uống, mà sáng nay tôi đang thèm cà phê.

- Khó ngủ à?

- Trên giường… tôi đã mất thói quen ngủ trên giường. Cô thì sao?

- Giường nhà anh rất thoải mái.

- Nó có gì vậy, trong bàn tay phải mà lúc nào cô cũng giấu trong túi ấy?

- Tôi thuận tay tái, tôi ít dùng tay phải.

Suzie thoáng do dự.

- Đúng hơn thì nó không dùng được nữa, cô vừa nói vừa chìa bàn tay ra.

Ngón trỏ và ngón giữa bị cụt đến đốt thứ hai.

- Thua bạc à? Andrew hỏi.

- Không, Suzie cười nói, vì cước. Điều kỳ lại nhất là ta vẫn cảm nhận được chúng, như thể chuyện tháo khớp chưa từng diễn ra. Đôi khi cơn đau lại trỗi dậy. Dường như sau vài năm chuyện đó mới hết.

- Chuyện xảy ra khi nào?

- Mùa đông năm ngoái, chúng tôi đang đi leo Mont- Blanc, chúng tôi bị rơi xuống một khe núi.

- Chính là trong chuyến thám hiểm mà chồng cô đã tử nạn?

- Anh ấy không tử nạn, tôi đã giết anh ấy.

Andrew sững người khi nghe lời thú nhận này.

- Sự bất cẩn và thói bướng bỉnh của tôi đã khiến anh ấy mất mạng, Suzie nói thêm.

- Anh ấy là hướng dẫn viên của cô, đánh giá mối nguy hiểm là việc của anh ấy.

- Anh ấy đã cảnh báo cho tôi, tôi đã không muốn nghe theo, tôi cứ tiếp tục leo, anh ấy đã leo theo tôi.

- Tôi có thể hiểu điều mà cô đang cảm thấy. Tôi cũng thế, tôi phải chịu trách nhiệm về cái chết của một người đàn ông.

- Ai?

- Vệ sĩ của một gã mà tôi theo dõi. Chúng tôi đã rải đinh trên một đoạn đường để chọc thủng lốp xe của họ, buộc họ phải dừng lại. Chuyện đó đã trở nên tệ hại, chiếc xe đó lộn nhào và người ngồi đằng trước xe đã tử nạn.

- Anh đang nói thẳng vào mấy cuộc điều tra của anh đấy! Suzie xuýt xoa.

- Thật buồn cười, tôi chưa từng nói với ai chuyện đó, kể cả với cậu bạn thân nhất của mình.

- Vậy tại sao lại nói với tôi chuyện đó?

- Để chứng mình rằng mọi việc hiếm khi xảy ra đúng như dự kiến, rằng tai nạn có thể xảy ra. Cô muốn gì trên Mont- Blanc giữa mùa đông chứ? Tôi mù tịt về leo núi nhưng tôi có thể hình dung đó không phải là mùa thích hợp nhất để đi leo núi.

- Đó là một kỷ niệm.

- Cô ăn mừng điều gì vậy?

- Một vụ rơi máy bay, nó đã tan xác trên mỏm Tournette.

- Ăn mừng với cô thích thật đấy.

- Tôi cũng từng tâm sự với anh một điều tối mật. Thậm chí tôi còn nghĩ mình đã nói với anh nhiều hơn dự định.

- Nếu như là để khiêu khích, thì cô thành công rồi.

- Không hề, Suzie đáp. Hãy cứ là quý ông đã giao chìa khóa nhà cho một phụ nữ xa lạ và chúng ta đổi đề tài thôi.

- Cô nói đúng, suy cho cùng, chuyện đó cũng chẳng can hệ đến tôi.

- Tôi xin lỗi, tôi không muốn là người lỗ mãng.

- Tại sao hai người lại tưởng niệm một vụ tai nạn máy bay trên độ cao 4.600 mét? Cô có người thân trên chuyến bay đó à? Cô muốn giành một lần tưởng niệm cuối cùng cho người đó?

- Đại loại là như vậy, Suzie đáp.

- Tôi cũng có thể hiểu chuyện này. Để tang ai đó mà không thể đến tưởng niệm trước một nấm mồ quả là việc khó khăn. Nhưng thực hiện cuộc hành hương kiểu này và để mất người bạn đồng hành, đó là một sự tàn ác không thể gọi tên.

- Núi non luôn tàn ác, cuộc đời cũng thế, không phải sao?

- Chính xác thì cô biết gì về tôi, thưa cô Baker?

- Biết rằng anh là phóng viên tờ The New York Times, hôm qua anh đã nói với tôi điều đó .

- Tất cả đấy sao?

- Anh đã ly hôn, và anh nghiện rượu, nhưng hai chuyện đó có liên quan tới nhau hay không thì anh chưa nói.

- Không, tôi không nói với cô chuyện đó.

- Mẹ tôi nghiện rượu, tôi biết cách nhận ra một người nghiện rượu từ cách cả trăm mét.

- Xa đến thế sao?

- Đúng, cũng như mọi đứa trẻ có phụ huynh nghiện rượu, và tôi vẫn giữ những ký ức không mấy tốt đẹp về chuyện này.

- Tôi đã cai một thời gian dài, rồi uống lại, và…

- …anh lại cai và tái nghiện mỗi khi gặp khó khăn.

- Cô biết dùng từ đấy.

- Người ta sai rồi. Tôi thích những người không sợ nói thẳng, Andrew nói.

- Đó là trường hợp của anh?

- Đúng thế, tôi nghĩ vậy. Nhưng tôi còn công việc và cô cũng thế. Có thể ngày mai chúng ta sẽ gặp lại nhau.

- Chắc chắn rồi, tôi sẽ trả chìa khóa nhà cho anh. Tôi đã nghe lời khuyên của anh và đã tiêu sạch khoản tiết kiệm rồi. Tôi đã đặt mua một bộ ga đệm mới.

- Và một ổ khóa mới?

- Để làm gì chứ, nếu có kẻ vẫn muốn phá nó, thì mới hay cũ cũng chẳng thay đổi được gì nhiều. Hẹn gặp ngày mai, anh Stilman, tôi trở lại phòng đọc đây.

Suzie đứng dậy và bưng khay của cô đi khỏi. Andrew dõi mắt theo cô, quyết định tìm hiểu thêm về người phụ nữ có cách cư xử khiến người khác hoang mang này.

Anh rời căng tin thư viện và xuống taxi ở trước số nhà 65 phố Morton.

*

Anh bấm vào tất cả các chuông gọi cửa và chờ cho đến khi rốt cuộc có người xuống mở cửa. Anh gặp một phụ nữ trên chiếu nghỉ tầng ba và nói với bà một cách rất tự nhiên rằng anh đến giao một bức thư cho cô Baker. Khi đến trước căn hộ 6B, chỉ cần một cú hích vai nhẹ anh đã mở được cánh cửa. Vào được bên trong rồi, anh xem xét xung quanh, tiến lại bàn làm việc là lục lọi ngăn kéo.

Các ngăn kéo chỉ có vài chiếc buets và một cuốn sổ ghi chép. Trang đầu tiên viết một dãy số không tài nào hiểu nổi. Trên trang thứ hai có thể nhận ra dấu hằn của một lời nhắn được giất trên trang giấy hẳn đã bị giật đi. Những vết hằn đủ rõ nên có thể đọc được.

“Ta không đùa khi cảnh báo cháy chuyện đó đâu, Suzie. Hãy cẩn thận, trò chơi này quá mạo hiểm. Cháu biết phải liên lạc với ta bằng cách nào rồi, đừng chần chừ khi cần nhé”.

Phần còn lại của sổ ghi chép để trắng. Andrew chụp ảnh hai trang đầu bằng điện thoại di động. Anh vào xem xét phòng ngủ và phòng tắm. Trở lại phòng khách, trong khi kiểm tra kỹ lưỡng các bức ảnh trên tường và chỉnh lại một khung ảnh, anh nghe thấy giọng nói trong tiềm thức hỏi anh đang chơi trò gì, anh biết lấy cớ gì đây nếu có ai đó bước vào? Và vẫn cái giọng rủ rỉ đó giục giã anh rời khỏi nơi này ngay lập tức.

*

Lúc về nhà, Simon đã thấy Andrew ngồi bên chiếc bàn nhỏ trong phòng ngủ, dán mắt vào chiếc máy tính xách tay, tay cầm cốc Fernet-Coca đã vơi một nửa.

- Tớ có thể biết cậu đang làm gì được không?

- Tớ đang cày.

- Cậu uống mấy cốc rồi?

- Hai, có thể là ba.

- Ba hay bốn? Simon vừa hỏi vừa giật cốc rượu từ tay bạn.

- Cậu làm tớ bực rồi đấy, Simon.

- Chừng nào cậu còn ngủ dưới mái nhà này, để đổi lại hãy chấp nhận điều duy nhất tớ yêu cầu cậu. Coca không Fernet khó uống hơn cái thứ này đến thế sao?

- Hơn là cậu nghĩ đấy. Nó giúp tớ tư duy.

- Cứ nói tớ nghe điều gì đang khiến cậu lo lắng, một anh bạn già có thể cạnh tranh với một thứ đồ uống đắng ngắt lắm chứ, ai mà biết được.

- Có điều gì đó không ổn ở cô gái đó.

- Cái cô trong thư viện á?

Simon nằm ngửa ra giường, cánh tay gối sau gáy.

- Tớ nghe cậu nói đây.

- Cô ấy đã nói dối.

- Về chuyện gì?

- Cô ấy bảo là mới chuyển tới căn hộ trên phố Morton được ít lâu, nhưng không phải thế.

- Cậu chắc chứ?

- Không khí ở New York ô nhiễm thật, nhưng không đến mức chỉ trong có vài tuần mà các khung ảnh đã kịp lưu lại dấu vết trên tường. Bây giờ, vấn đề là tại sao phải bịa ra chuyện đó?

- Đơn giản là để cậu không xía vào cuộc đời cô ấy. Cậu ăn tối chưa? Simon hỏi.

- Rồi, Andrew vừa đáp vừa chỉ vào cái cốc vừa bị Simon nẫng mất.

- Mặc áo khoác vào!

Đêm đang dần buông, những con phố của khu West Village lại đông đúc người qua lại. Andrew dừng bước trên vỉa hè đối diện tòa nhà anh ở và ngước mắt nhìn lên ô cửa sổ tầng bốn, nơi ánh điện vừa được tắt.

- Ngủ sớm nhỉ, cô khách trọ của cậu ấy, Simon nói.

Andrew nhìn đồng hồ đeo tay. Cánh cổng tòa nhà bật mở. Suzie Baker ngược lên phố, không nhận ra họ.

- Nếu mong muốn bám theo cô ấy lướt qua tâm trí cậu, thì là không có tớ nhé, Simon thì thào.

- Đi thôi, Andrew vừa nói vừa nắm chặt cánh tay cậu bạn.

Họ đi vào phố West 4 theo bước chân Suzie. Cô gái trẻ vào cửa hàng của Ali, ông chủ hàng tạp hóa biết rõ mọi người dân trong khu. Cô vừa bước vào bên trong đã trở ra ngay, và đi thẳng về phía Andrew.

- Phải cho pin loại nào vào điều khiển ti vi? Tôi thích ngủ thiếp đi trước màn hình ti vi, cô nói với Andrew, lờ tịt Simon.

- Loại AA, tôi nghĩ thế, Andrew lúng búng.

- Pin AA, cô nhắc lại đồng thời trở vào trong tiệm tạp hóa.

Andrew nhìn chòng chọc vào mặt Simon và ra hiệu cho anh đi tới. Họ gặp lại Suzie trước quầy tính tiền. Andrew chìa tờ 10 đô cho Ali để thanh toán tiền pin.

- Tôi muốn hai anh theo sát tôi hơn nữa, như thế bớt lo hơn, Suzie nói.

- Tôi không đi theo cô. Chúng tôi đi ăn tối ở quán Cluny, cách đây hai phố, cô có thể tham gia cùng chúng tôi nếu muốn.

- Tôi đang đi tới một triển lãm ảnh ở khu Meatpacking, hãy đi cùng tôi, sau đó cả chúng ta sẽ cùng ăn tối.

Hai tòng phạm nhìn nhau và đồng ý.

- Tôi đảm bảo với cô là chúng tôi không theo dõi cô, Simon nhấn mạnh.

- Tôi tin điều đó rồi!

*

Phòng trưng bày rộng rãi và trần nhà cao đến chóng mặt, Suzie nhìn ngắm những mảng gồ ghề trên các bức tường bê tông đậm chất kiến trúc.

- Như thế này hẳn sẽ khá thú vị nếu leo từ đây lên đến trần, cô tươi cười nói.

- Cô đây đôi khi còn là nhà leo núi, Andrew nói rõ thêm khi thấy Simon cứ há hốc miệng ra nghe.

Suzie tiến lại gần một bức ảnh được in trên một tấm toan cỡ 3x4 mét. Hai nhà leo núi đối mặt với một cơn gió mà những xoáy tuyết khiến người ta có thể hình dung được cường độ gió đang cắm một lá cờ trên đỉnh Himalaya.

- Nóc nhà thế giới, Suzie mơ màng nói. Mục tiêu tối hậu của mọi nhà leo núi. Ôi trời, dãy núi hùng vĩ này đã bị quá nhiều khách du lịch làm cho nhơ bẩn.

- Leo Himalaya cũng nằm trong kế hoạch của cô chứ? Andrew hỏi.

- Có thể là một ngày nào đó, biết đâu được.

Rồi Suzie quay sang một bức ảnh khác chụp từ lớp băng tích của một sông băng. Những đỉnh núi sừng sững dọa dẫm nổi bật trên nền trời màu xanh đêm.

- Đó chính là dãy Siula Grande ở Peru, Suzie nói, cao 6.344 mét. Mới chỉ có hai nhà leo núi chinh phục thành công ngọn núi này. Hai người Anh, vào năm 1985, Joe Simpson và Simon Yates. Một người đã bị gãy đùi vì hẫng tay trên đường trở xuống. Suốt hai ngày ròng, người bạn cùng dây leo đã giúp anh ta xuống núi. Và rồi khi leo xuống dọc một vách đá, Joe đã bị va vào thành núi. Simon không thể nhìn thấy chuyện đó. Anh chỉ cảm nhận được sức nặng tám mươi cân ở đầu dây kia. Anh cứ giữ như thế suốt đêm, trong giá lạnh, chân găm chặt vào băng tuyết để giữ bạn đồng hành, từ đầu dây kia đang kéo theo anh, từng phân một, xuống dưới vực thẳm. Đến sáng, sợi dây leo đã bất động bởi trong khi vùng vậy Joe đã khiến nó kẹt vào một hốc núi. Đinh ninh bạn đồng hành đã chết, Simon quyết định làm một việc duy nhất có thể cứu mạng mình, anh đã cắt dây. Joe bị rơi khoảng chục mét, lớp tuyết phủ bề mặt bị bục ra dưới sức nặng cơ thể của anh và anh đã bị nuốt chửng trong một khe núi.

Nhưng Joe vẫn còn sống. Không thể leo trở lên vì vết thương anh đã rất mực can đảm mới dám đi xuống tận đáy khe núi. Dãy Siula Grande hẳn là không muốn nhận anh, vì anh đã tìm thấy một lối ra, và, bất chấp cái đùi bị gãy, anh đã ra được ngoài. Điều mà anh làm tiếp đó để lê lết tới tận khối băng tích này vượt trên cả lý trí bởi nỗ lực cần thiết thật là phi thường. Câu chuyện về Joe và Simon đã đi vào huyền thoại của dân leo núi. Chưa có ai lặp lại được kỳ tích này. Dãy Siula Grande đã tìm lại được sự trong sạch của nó.

- Thật ấn tượng, Andrew xuýt xoa. Điều đó khiến ta tự hỏi cần có lòng can đảm hay phải mất trí thì mới đi mạo hiểm trên những ngọn núi như vậy.

- Lòng can đảm, nó chỉ là một thứ tinh thần mạnh hơn sợ hãi, Suzie nói. Chúng ta đi ăn chứ?

Simon bị tê liệt dưới sức quyến rũ của Suzie, Suzie nhận ra điều đó mà không tỏ vẻ là cô biết và đùa giỡn với nó, cách xử sự này khiến Andrew mê mẩn. Chuyện cô gạ bạn anh uống và vờ như bị cuốn vào câu chuyện về những chiếc xe cổ của cậu bạn khiến anh thấy vui. Andrew tranh thủ thời điểm đó để quan sát cô, ít nói chuyện, cho đến khi cô hỏi Simon xem Andrew thuộc loại phóng viên nào.

- Gã cứng đầu nhất mà tôi từng biết, Simon đáp, cũng là một trong những tay được việc nhất.

- Nhưng cậu chỉ biết có một tay như thế thôi, Andrew xen ngang.

- Tớ có đọc báo đấy, bạn thân mến.

- Đừng nghe cậu ấy nói, cậu ấy say rồi.

- Chủ đề cuộc điều tra gần đây nhất của anh là gì? Suzie quay sang hỏi anh.

- Cô sinh tại New York à? Simon chen ngang.

- Boston, tôi mới chuyển đến đây ít lâu.

- Sao lại chọn Manhattan?

- Tôi trốn chạy quá khứ và cả Boston.

- Một chuyện tình có kết cục đáng buồn à?

- Thôi đi, Simon!

- Đúng, chúng ta có thể nhìn nhận mọi chuyện dưới góc độ đó, Suzie thản nhiên nói. Còn anh, Simon, anh đang độc thân à?

- Không, Simon đáp, một mắt liếc sang Andrew.

*

Ăn tối xong, Andrew và Simon tiễn Suzie về.

Cánh cửa tòa nhà vừa đóg lại, cô liền lấy từ túi áo ra chiếc điện thoại cứ rung không ngừng nghỉ trong suốt bữa ăn.

Cô đọc tin nhắn và đang ngước mắt lên trời ngao ngãn thì điện thoại lại rung lần nữa.

- Gì nữa đây, Knopf?

- Đến tiệm Ali, người ở đầu dây bên kia đáp ngắn gọn trước khi tắt máy.

Suzie cắn môi, cất điện thoại vào túi xác rồi quay trở ra. Cô nhìn bao quát khoảng vách vài mét ngắn cách mình với tiệm tạp hóa rồi đi vào sâu trong cửa hàng. Ali đang gà gật trên chiếc ghế tựa, được âm thanh phát ra từ chiếc radio đặt trên quầy ru vào giấc ngủ.

Arnlod Knopf, cặp kính trễ xuống tận mũi, đang nghiên cứu thành phần của một hộp thức ăn cho mèo mà ông đã đặt trở lại giá trước khi chọn tiếp một hộp khác.

- Chiều nay anh ta tới thăm căn hộ của cháu, ông nói nhỏ.

- Ông chắc chứ?... phải rồi, ông chắc chắn điều đó, Suzie nói tiếp.

- Ta hy vọng cháu không để lời nhắn của ta lọt ra đấy chứ?

- Đừng có ngốc nghếch thế. Anh ta thật sự đã tới nhà tôi sao?

- Mà lại không tốn nhiều công sức như ta, cháu thân mến ơi, ta gần như phát bực đấy.

- Ít ra, điều đó cũng chứng tỏ tôi nói đúng.

- Suzie, nghe cho thật kỹ nhé. Kế hoạch của cháu cho đến giờ vẫn đang trong vòng bí mật, vì cháu là người duy nhất thực hiện, cũng vì tính thiếu chuyên nghiệp của cháu đã bảo vệ cháu khỏi điều tệ hại, theo một cách nào đó. Nếu cháu kéo một kẻ như Stilman vào vụ này, hắn sẽ xoay chuyển tình thế đấy. Và ta ngờ rằng cháu sẽ sớm để lộ thân phận mình thôi.

- Đó là một nguy cơ cần phải tính đến, và tôi xin ông, Arnold, hãy thôi lo lắng cho tôi đi, chính ông đã nói điều này, tôi đã lớn, tôi biết mình đang làm gì.

- Nhưng cháu không biết đó là thứ gì, cũng chẳng biết tìm kiếm nó ở đâu.

- Chính vì điều đó mà tôi mới cần đến anh ta.

- Ta sẽ không khiến cháu đổi ý được, phải không?

- Tôi chẳng biết gì về thức ăn cho mèo, nhưng cái hộp màu hồng này có vẻ ngon hơn đấy, cô vừa nói vừa nhấc chiếc hộp trên giá rồi đưa nó cho Knopf.

- Vậy thì, ít nhất hãy nghe lời khuyên này. Vì chúng ta đang nói chuyện mèo, nên hãy thôi vờn đuổi anh ta, kể vắn tắt cho anh ta nghe, hãy nói với anh ta chút ít những gì mà cháu biết.

- Vẫn còn quá sớm, tôi biết kiểu của gã này, không ai có thể áp đặt câu chuyện cho anh ta. Cần phải đẻ mọi chuyện xuất phát từ anh ta, nếu không, chẳng ăn thua.

- Quả táo không mấy khi rụng xa gốc cây đâu, Knopf thở dài.

- Ông có ý gì khi nói thế?

- Cháu hiểu ta quá rõ mà. Tạm biệt, Suzie.

Knopf mang hộp thức ăn cho mèo ra quầy tính tiền, đặt 3 đô la lên quầy của Ali và ra khỏi tiệm tạp hóa.

Năm phút sau, đến lượt mình Suzie cũng ra khỏi đó và khuất dần vào bóng đêm theo hướng căn hộ của Andrew.

*

- Thế nhỡ cô ấy nhìn thấy chúng ta, Simon càu nhàu, cậu sẽ nói gì với cô ấy? rằng chúng ta dẫn chó đi dạo à?

- Cô ấy rất kỳ cục.

- Cô ấy có gì kỳ cục nào? Cô ấy thích ngủ trước ti vi, cậu mách nhầm kiểu pin, cô ấy đã quay lại mua pin.

- Có thể.

- Giờ chúng ta có thể tới đó không?

Andrew đưa mắt lần cuối nhìn về phía tiệm tạp hóa và bắt đầu tiến bước.

- Được, đồng ý là cô ấy đã nói dối ngày chuyển tới New York, chuyện đó không nghiêm trọng lắm. Cô ấy hẳn có lý do riêng.

- Tối nay không chỉ có mình cô ấy nói dối. Cậu không độc thân từ khi nào vậy?

- Tớ nói dối như vậy là vì cậu đó. Tớ thấy rõ rành là mình lọt vào mắt xanh của cô ấy rồi, nhưng cô gái này đúng kiểu người cậu thích. Tớ để ý hai người ngồi bên nhau và đó như một điều hiển nhiên. Cậu có muốn tớ dốc bầu tâm sự với cậu không?

- Không chắc, không.

- Nỗi ám ảnh của cậu với chuyện của cô ấy, chính là bởi vì cậu thích cô ấy và cậu đang tìm cả nghìn lý do để không tự thú nhận điều đó.

- Tớ biết lẽ ra mình không nên nghe điều này mà.

- Trong hai người ai đã bắt chuyện với đối phương vào lần đầu tiên trò chuyện vậy?

Andrew không trả lời.

- Ờ đấy! Simon vừa thốt lên vừa dang tay ra.

Và trong lúc tiến bước trên các con phố của khu West Village, Andrew tự hỏi điều mà người bạn thân nhất của anh vừa nói có xa sự thật quá không. Rồi anh lại nghĩ tới người đàn ông bước ra từ tiệm tạp hóa của Ali, không lâu trước khi Suzie. Anh đảm bảo là đã gặp ông ta ở thư viện.

*

Ngày hôm sau, trong khi đến thư viện, Andrew nhận được một cuộc gọi từ giáo sư Hardouin.

- Tôi đã tiến hành tìm kiếm theo yêu cầu của anh, ông nói. Nhưng cũng chưa đi đến đâu cả.

- Tôi nghe ông nói đây.

- Hồi đầu năm, chúng tôi đã tiếp nhận một phụ nữ trẻ mang quốc tích Mỹ là nạn nhân một vụ tai nạn trên Mont-Blanc. Theo một y tá ở bệnh viện chúng tôi, cô bệnh nhân đó bị mất nhiệt và bị cước rất nghiêm trọng. Cô ấy đáng lẽ đã được phẫu thuật tháo khớp ngay ngày hôm sau.

- Người ta tháo khớp chỗ nào của cô ấy?

- Ngón tay, cũng thường gặp với tai nạn kiểu này, nhưng tôi không biết là tay nào.

- Bệnh án ở bệnh viện chỗ ông có vẻ không nhiều thông tin lắm nhỉ, Andrew thở dài.

- Chúng rất đầy đủ thông tin, nhưng chúng tôi không thể tìm lại được bệnh án của cô bệnh nhân này. Mùa đông rất khắc nghiệt, biết bao người trượt tuyết, người dạo bộ và người bị tai nạn giao thông, chúng tôi luôn quá tải và thiếu nhân lực, phải công nhận điều đó. Hồ sơ hành chính của cô ấy chắc là do sơ ý đã được đem đi cùng bệnh án trong lần chuyển viện của cô ấy.

- Lần chuyển viện nào?

- Vẫn là theo cô y tá chỗ tôi nói lại, một người họ hàng của nạn nhân đã xuất hiện chỉ vài giờ trước cuộc phẫu thuật và đưa cô ấy lên một xe cứu thương đầy đủ trang thiết bị mà ông ta đã thuê. Họ đi Genève nơi một máy bay đang đợi để hồi hương về Mỹ. Marie-Josée thổ lộ với tôi là chính cô ấy đã ngăn cản ô tô xuất phát, vì việc tháo khớp nên được thực hiện ngay lập tức, nguy cơ bị hoại thư rất cao. Nhưng cô gái đó đã tỉnh lại và muốn được phẫu thuật tháo khớp tại quê nhà. Chúng tôi không thể phản đối nguyện vọng của cô ấy.

- Vậy thì, nếu tôi hiểu đúng, các ông không hề biết danh tính của cô ấy?

- Than ôi, không hề.

- Và các ông không thấy chuyện đó có gì kỳ cục à?

- Có, mà không, tôi đã nói với anh rồi đó, trong lúc gấp gáp…

- Bệnh án của bệnh nhân này đã bốc hơi cùng cô ta, vâng, ông đã nói với tôi chuyện đó. Dù gì thì viện phí cũng đã được thanh toán. Ai đã trả tiền cho cô ta?

- Thông tin này cũng lưu trong bệnh án, cùng với biên nhận.

- Các ông không có camera giám sát ở cổng vào bệnh viện sao? Một câu hỏi thừa thãi, camera ở cổng vào một cối xay thì để làm gì chứ…

- Xin lỗi, ý anh là sao?

- Không có gì, thế ê kíp sơ cứu cho co ấy trên núi thì sao? Chắc là họ phải tìm thấy giấy tờ tùy thân trên người cô ấy chứ?

- Anh nên nhớ là tôi cũng đã có suy nghĩ tương tự. Thậm chí tôi đã nảy ra ý gọi điện cho cảnh sát, nhưng các hướng dẫn viên leo núi mới là những người cứu được cô ấy. Vì tình trạng của cô gái lúc đó, họ đã đưa cô ấy ra khỏi vùng núi mà không để phí hoài giây phút nào. Nói tôi nghe, anh đang điều tra về chất lượng chăm sóc bệnh nhân của bệnh viện chúng tôi hay về số phận của cô gái đó?

- Theo ông thì sao?

- Trong trường hợp này, thứ lỗi cho tôi, nhưng tôi còn cả một bệnh viện phải quản lý.

- Và có vẻ ông nhiều việc đấy!

Andrew không kịp nói lời cảm ơn Edgar Hardouin, ông bác sĩ vừa bất thình lình gác máy.

Đầu óc mải nghĩ tới cuộc nói chuyện, Andrew đi ngược xuống những bậc thang lớn của thư viện. Suzie, đang quan sát anh từ bậc trên cùng, nhìn anh đi xa dần về phía phố 42.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Nhấn vào giữa màn hình để hiển thị Tùy chọn đọc.
Theo dõi Đọc Sách Hay trên Facebook, mỗi ngày chúng tôi cập nhật những cuốn sách, truyện hay nhất!

Có thể bạn thích