Đường Ra Biển Lớn
Chương 30: TÍNH ĐA DẠNG VÀ NHỮNG ĐIỀU BẤT LỢI

1998 – 2005
Đã có rất nhiều chuyện xảy ra trong thập kỷ trước. Cuốn sách này được mở đầu với nỗ lực bay vòng quanh thế giới trên một chiếc khinh khí cầu và một chuyến đi kết thúc tại sa mạc Algeria. Đó là chuyến đi bằng khinh khí cầu cuối cùng của tôi vào cuối năm 1998. Tuy nhiên, đó cũng là chuyến đi đã đánh thức một vài giác quan của tôi. Tôi nhận ra rằng đó có thể là thời gian để kiểm chứng cho những gì tôi học được trong suốt quá trình khám phá của cá nhân tôi. Và đó là một chuyến đi thật tuyệt vời.
Khi chúng tôi chuẩn bị khởi hành, có người gợi ý tôi nên mang theo một cuốn nhật ký, và tôi phủi bụi trên cuốn sổ để sử dụng nó ở đây. Không cất nó đi, tôi định để cho các bạn xem nó với những gì tôi đã viết để các bạn có thể cảm nhận được nó đã trôi dạt, vượt cả ngàn dặm trên Trái đất với những cơn gió để mang lại sức mạnh cho bạn.
Ngày thứ nhất, 18/12/1998
Đây là nhật ký dành cho Theo, con trai đỡ đầu của tôi, người đã chứng kiến chúng tôi xuất phát ngày hôm nay từ Marrakech, dành cho Lochie, India, Woody, dành cho tất cả những đứa cháu trai, cháu gái của tôi, và cho con tôi là Holly và Sam.
Những người Morocco thú vị đã chào đón chúng tôi như những người anh em. Holly và Joan đã đến sân bay. Khinh khí cầu nhìn giống như một nhà thờ Hồi giáo nguy nga và mặt trời đang mọc lên trên đỉnh ngọn núi Atlas. Thật lạ là tôi không cảm thấy lo lắng về chuyến đi này: Chúng tôi có một nhóm chuyên nghiệp lên kế hoạch cho chuyến đi. Chúng tôi đã trải qua quá nhiều nỗi buồn trong quá khứ nên tôi thực sự cảm thấy đây là một cơ hội tốt.
Vấn đề nghiêm trọng duy nhất đó là tối hôm qua Mỹ và Anh bắt đầu đánh bom Iraq. Trong khi đó chúng tôi chuẩn bị bay dọc theo biên giới Iraq trong khoảng 30 giờ nữa – cách Iraq khoảng 50 dặm.
Chúng tôi có Bob Rice – Chuyên gia dự báo thời tiết (nhà khí tượng học) giỏi nhất trên thế giới. Anh tin rằng anh có thể giúp chúng tôi tìm được hướng gió sẽ đưa chúng tôi bay dọc theo đường biên giới mà không phải bay ngang qua Iraq. Tôi hứa với anh rằng chúng tôi sẽ nhồi thức ăn cho anh chứ không phải là cho gà tây trong dịp Giáng sinh này nếu anh tìm đường sai. Đó là nếu chúng tôi chưa sẵn sàng tự nhồi chính mình.
Hầu hết bạn bè thân và gia đình tôi, trừ Sam đang phải đi học thì đều bay đến để tiễn chúng tôi, sau khi đã đi cùng chúng tôi tới Caribbe một ngày trước khi đi nghỉ. Lúc đến đó, tôi được yêu cầu quay trở lại vì chúng tôi đã thấy thời tiết hoàn hảo. Thời tiết thật hoàn hảo và nếu không có gì sai sót nghiêm trọng thì chúng tôi có thể trở về vào ngày sinh nhật của ông tôi – Ngày lễ tặng quà.

Chúng tôi đến với sự chào đón nồng nhiệt của các nhạc sĩ, lạc đà, nghệ sỹ xiếc tung hứng và thậm chí cả thảm bay. Những đứa trẻ của Alex Ritchie, Alistair và Duncan, con gái Holly của tôi và con gái Jenny của Per cùng nhau nhấn nút để đưa chúng tôi bay lên bầu trời.
Chúng tôi đeo dù. Chúng tôi chào tạm biệt mọi người, chào bố mẹ tôi, anh rể tôi, con gái và các bạn của tôi. Mọi người đều khóc.
Chúng tôi đếm ngược – 10-9-8-7-6-5-4-3-2-1 – và cất cánh!
Chúng tôi lên độ cao hơn 600 mét thật nhẹ nhàng. Cửa vẫn mở. Mọi người vỗ tay và reo hò. Sau đó đột nhiên chúng tôi bắt đầu rơi xuống: Chúng tôi gặp phải sự thay đổi của thời tiết khi độ cao thay đổi. Chúng tôi đốt lửa để làm nóng khí heli. Chúng tôi vượt qua trở ngại về thời tiết. Chúng tôi nhận ra là mình đã đốt quá nhiều.
Chúng tôi đang bay lên và phần đuôi của khinh khí cầu đang cháy âm ỉ – 518 mét trong một phút, 548 mét, 579 mét – cho đến cuối cùng chúng tôi bay chậm lại, nhưng chất đốt đã đốt nhiều lỗ ở đáy khinh khí cầu. Đó là chiếc khinh khí cầu chạy bằng khí heli và đó là phần then chốt. Chúng tôi có thể bay trên những chiếc lỗ xấu xí, nhưng không gì có thể ngăn cản chúng tôi.
Thật là tuyệt vời. Chúng tôi đang bay cùng những chú chim và chúng tôi bay trên con đường của mình. Mọi thứ dường như đều đang hoạt động: Chúng tôi đang tiến đến độ cao của máy bay, khoang lái đang điều áp và khinh khí cầu không bị nổ. Chúng tôi đang ở giai đoạn đầu tiên của hành trình khám phá tuyệt vời, và dưới kia là ngọn Atlas tuyệt đẹp được tuyết dày bao phủ.
Ngày thứ hai, ngày 19/12/1998
Trong nhiều giờ, chúng tôi có một chuyến bay tuyệt vời ngắm nhìn dãy núi Atlas trải dài toàn bộ phía Nam châu Phi, từ Morocco sang Algeria, Lybia và hầu hết Ai Cập. Chúng tôi tạm biệt những người Moroco sau bảy tiếng bay trên đất nước này và hướng tới Algeria.
Algeria trở thành một đất nước buồn vì cuộc nội chiến kinh khủng đang diễn ra. Chúng tôi lao vào đó hai năm trước khi khinh khí cầu của chúng tôi gặp trục trặc vào buổi tối và chúng tôi buộc phải hạ cánh. Nhưng đêm nay, chúng tôi đang bay dọc theo dãy núi Atlas, trên sa mạc gồ ghề nơi Alex và tôi đã có lần phải ném hết mọi thứ chúng tôi có ra khỏi khinh khí cầu để giảm tốc độ rơi – thậm chí chúng tôi còn phải vứt cả một phong bì đầy tiền. Lần đó Alex đã cứu mạng chúng tôi bằng cách trèo lên mái và thả bình chứa nhiên liệu xuống trước khi chúng tôi rơi xuống mặt đất.
Lần này mọi thứ có vẻ diễn ra tốt đẹp.
Mọi thứ diễn ra quá tốt! Khi trời chuẩn bị tối và khí heli trên đầu chúng tôi trở nên lạnh, chúng tôi bật lò đốt lên. Thay vì bị lao xuống, khi chúng tôi nỗ lực hết sức có thể, hơi nóng làm cho khinh khí cầu không lao xuống nữa và ngọn lửa đã thắp sáng bầu trời Ả-Rập quanh chúng tôi. Chúng tôi cần phải cẩn thận không được bay cao hơn tầm mà chúng tôi

đã bay cả ngày nay, nếu không thì hơi nóng sẽ đốt khí heli và rút ngắn thời gian bay trên trời. Vì thế, chúng tôi thay nhau điều khiển suốt đêm.
Sau đó, khi quá mệt mỏi, bỗng nhiên chúng tôi gặp sự cố. Một tin nhắn từ Libya được gửi đến nói rằng họ rút lại giấy phép không cho chúng tôi bay trên bầu trời của nước này. Đã là nửa đêm, trời tối đen như mực, và chúng tôi chưa từng hạ cánh trước khi chúng tôi bay ngang qua biên giới của họ. Steve, Per và tôi tranh luận xem chúng tôi có thể làm gì. Nếu chúng tôi bay quá thấp thì chúng tôi có thể đi qua phía Nam của Lybia, nhưng như thế có nghĩa là chúng tôi từ bỏ giấc mơ của mình. Cuối cùng, chúng tôi quyết định giảm tốc độ bằng cách bay thấp hơn để có thời gian thuyết phục Colonel Qaddafi, người lãnh đạo Libya, rằng khinh khí cầu của chúng tôi đang thực hiện sứ mệnh thể thao phục vụ lợi ích của hòa bình. Trước kia, vị Vua Jordan đã giúp chúng tôi rất nhiều và trước đây tôi cũng rất vinh dự được biết Nelson Mandela – và tôi biết là anh ấy biết Conole Qaddafi khá rõ. Thư ký Sue của tôi mở cửa văn phòng vào đầu giờ sáng và có được số điện thoại của họ.
Vấn đề tiếp theo là có thể họ đều đang ngủ. Vị Vua Jordan hiện đang không khỏe vì bị ung thư, và Nelson Mandela thì không còn trẻ nữa, nên tôi quyết định viết một trong những bức thư quan trọng nhất trong đời cho Colonel Qaddafi.
Thưa ngài Đại sứ!
Tôi đang có một lời yêu cầu trực tiếp gửi đến ngài từ khinh khí cầu thách thức thế giới ICO mà công ty bưu chính viễn thông của Libya đã đầu tư rất nhiều vào.
Một người bạn của hai chúng ta, vị Vua Hoàng gia Jordan là Hussein, đã nói với ngài về kế hoạch bay vòng quanh trái đất trên khinh khí cầu của tôi. Tôi rất mong ngài sẽ cho phép chúng tôi được bay qua đất nước của ngài.
Rạng sáng ngày hôm nay, chúng tôi sẽ cất cánh từ Morocco khi biết rằng ngài cho phép chúng tôi bay qua đất nước của ngài. Chúng tôi sẽ không bay qua đất nước của ngài khi chúng tôi chưa được cho phép và chưa có được đặc cách của cả Algeria và Libya. Hiện chúng tôi đang bay qua Algeria và chúng tôi sẽ vượt qua biên giới của đất nước này trong một vài tiếng nữa vào buổi sáng ngày hôm nay.
Giấy phép cho phép bay ngang qua Libya [email protected] được rộng lượng kéo dài đến ngày 20/7/1998 cho chuyến bay của chúng tôi. Nhân viên của Air Trafic Control mới thông báo với chúng tôi rằng giấy phép này đã bị hủy bỏ. Chúng tôi hiểu rõ rằng họ có quyền làm như vậy, nhưng tôi e rằng hạ cánh vào ban đêm là điều không thể vì đá sẽ đóng băng trên van khí heli. Chúng tôi không thể làm giảm khí heli được.
Do tình trạng khẩn cấp, chúng tôi không biết làm thế nào để vượt qua không phận của nước ngài. Chúng tôi hy vọng rằng ngài sẽ cấp giấy phép khẩn cho chúng tôi trong trường hợp này thông qua dịch vụ kiểm soát giao thông hàng không của ngài.
Rất cám ơn ngài đã hiểu tình thế của chúng tôi lúc này!

Kính thư,
Richard Branson.

Lúc đó, chúng tôi thấy thực sự mệt mỏi và chúng tôi bay chậm hơn so với khả năng của khinh khí cầu để kéo dài thời gian. Lúc một giờ sáng, điện thoại reo lên và chúng tôi được báo rằng Colonel Qaddafi đã cho phép chúng tôi tiếp tục bay. Mặc dù vậy thì hành trình bay quanh thế giới của chúng tôi đã trở nên khó khăn do phải bay chậm hơn, nhưng vấn đề lớn hơn và trước mắt là do bay chậm lại, chúng tôi đã chuyển hướng và đang hướng đến cơn bão Istanbul ở Thổ Nhĩ Kỳ. Hy vọng là chúng tôi có thể bay qua cơn bão.
Dù đã vượt qua được áp lực của tất cả chuyện này hay những trục trặc về kỹ thuật, song tôi đã bắt đầu bị khản tiếng. Chúng tôi quyết định rằng tôi nên uống penicillin để đề phòng.
Per vẫn điềm tĩnh như tôi vẫn thấy. Giấc mơ mà anh ấy ấp ủ từ rất nhiều năm trước đã trở thành hiện thực. Và chúng tôi rất vinh hạnh được đi cùng với Steve. Anh ấy là người duy nhất trong số chúng tôi dám vào bếp, và cùng làm món súp mang tên Steve.
Trời đã sáng và chúng tôi đã bay qua biên giới Lybia. Chúng tôi được chào đón bởi hàng dặm sa mạc và sự nồng nhiệt từ trạm kiểm soát giao thông hàng không của Tripoli. Ở đây không có máy bay quân sự. Chúng tôi, nhóm khinh khí cầu toàn cầu ICO rất cám ơn Đại tá Qaddafi.
Ngày thứ ba, ngày 20/12/1998
Tôi không ngủ từ lúc viết nhật ký 24 tiếng trước. Tôi có lý do của mình. Tôi muốn chia sẻ với các bạn về 24 tiếng vừa qua của mình. Ước gì các bạn có thể ở đây với chúng tôi ngay lúc này. Tuy nhiên, có một số khoảnh khắc tôi lại không ước như vậy.
Tôi sẽ giải thích về những thử thách mà chúng tôi, những người sử dụng khinh khí cầu với mong muốn bay vòng quanh thế giới phải đối mặt. Đây không chỉ là các nhân tố hay thử thách về mặt công nghệ. Thật đáng buồn là thử thách này liên quan đến con người và chính trị. Như trong cuộc sống của chúng ta, những người bình thường thì không thể ngăn chặn được những vấn đề này. Có rất nhiều các chính trị gia hàng đầu ích kỷ, những người muốn biến đất nước của họ và thế giới thành một nơi đáng buồn để sống. Sau cùng, đây là một cuộc thi đấu thể thao và một sứ mệnh trong hòa bình.
Để bắt đầu, các bạn hãy mở bản đồ ra; hãy tưởng tượng mình là một nhà du hành bằng khinh khí cầu ở Thụy Sỹ, ở Pháp hay ở Morroco như chúng tôi đây. Sau đó, bay ngang qua một số quốc gia nơi mà các nhà chính trị ở đó không cho phép bạn bay qua đất nước của họ như Nga, Iran và Iraq (hãy nhớ rằng ba năm trước, hai nhà du hành bằng khinh khí cầu khi bay qua biên giới nước Nga đã bị bắn và giết một cách dã man).
Hãy tưởng tượng bạn đang tham gia một cuộc đua để dành vị trí đứng đầu trên toàn thế giới và có bảy nhà du hành bằng khinh khí cầu khác đang chờ cất cánh. Tất cả bọn họ dường như sẽ bay qua Nga và Iraq. Bạn biết rằng họ sẽ không bị trì hoãn như bạn đã gặp

phải, nên mỗi giây trôi qua là sự mạo hiểm lại trở nên cần thiết. Do đó, khi nhân viên khí tượng nói rằng anh ta tin mình có thể tóm lấy bạn ở giữa Nga và Iran, thay vì nói không, bạn hãy thử mạo hiểm. Mặc dù điều đó có nghĩa là bạn sẽ phải hạ cánh xuống một mảnh đất rộng 24 dặm, nơi cách địa điểm cất cánh khoảng 2.600 dặm, do Thổ Nhĩ Kỳ làm chủ và bị hai nước đã từ chối bạn đang tấn công từ hai bên sườn.
Hãy nhớ rằng một khinh khí cầu sẽ không bay được khi không có gió. Cách duy nhất để lái nó là thay đổi độ cao khi bạn bay và cố tìm các hướng gió khác nhau. Thật là tốt nếu bạn có được một nhà khí tượng giỏi nhất trên thế giới.
Nhà khí tượng sẽ nói cho bạn biết việc anh ấy nghĩ có thể làm được. Bạn và nhóm của mình chỉ quyết định là có theo hay không theo. Đêm trước khi khởi hành, bạn được thông báo là người Anh và người Mỹ đang đánh bom Iraq và bạn là người Anh còn Steve Fossett là người Mỹ. Con đường đặc biệt này cách Iraq khoảng 50 dặm.
Chắc chắn bạn sẽ bị coi là điên nếu tiếp tục đi và cho đến một tiếng trước tôi vẫn nghĩ là chúng tôi bị điên. Nhưng chúng tôi biết nhà khí tượng của chúng tôi – chúng tôi đã làm việc với Bob Rice trước khi ở Atlantic và Pacific – và chúng tôi biết rằng nếu ai đó có thể giúp chúng tôi vượt qua được hai đất nước này, hai đất nước mà chúng tôi không được phép bay qua thì người đó chỉ có thể là anh ấy.
24 giờ trước, chúng tôi tạm biệt Libya khi trời đang dần tối và bay hướng về phía Địa Trung Hải hướng tới Cyprus. Một chiếc RAF Hercules bay trên đầu chúng tôi. Họ nói rằng họ đang trên đường sang Iraq đánh bom. Họ chúc chúng tôi may mắn và chúng tôi cũng chúc họ may mắn.
Tôi vừa cố nằm xuống chợp mắt một chút thì Steve hét lên: “Đeo dù vào – trung tâm vừa dự báo có sấm ở phía trước!”. Chỉ hai tháng trước, Steve đã từng bị mất khinh khí cầu của mình trong một tình huống tương tự như vậy trên Thái Bình Dương nên anh ấy biết được sấm có sức tàn phá như thế nào. Bằng cách bay cao lên thì gió sẽ đưa chúng tôi qua Iraq. Điều gì tồi tệ hơn – một cơn bão ở phía trước hay “cơn bão” ở Iraq. Xa xa, chúng tôi có thể nhìn thấy lửa hiệu cấm máy bay. Chúng tôi quyết định mạo hiểm với sấm và quyết tâm đi tiếp. Một số người đang nhìn chúng tôi. Chúng tôi không chỉ bỏ lỡ trận bão mà còn bỏ lỡ Iraq cách đó 30 dặm, Iran 7 dặm và Nga 10 dặm. Ngay lúc này đây, nhà khí tượng của chúng tôi không hề sai. Nếu anh đưa chúng tôi về nhà trong ngày lễ nhận quà thì tôi sẽ nhận được rượu champagne.
Cảnh tượng nơi chúng tôi bay qua đẹp tuyệt vời. Chúng tôi đang bay qua ngọn núi Armenian bị tuyết che phủ; phía dưới chúng tôi là một ngôi làng nhỏ được gọi là Ararat, nơi Noah đã đặt chân đến trên con thuyền của ông. Từ bộ nghe điện đài của chúng tôi phát ra thông báo của bộ phận kiểm soát giao thông hàng không từ Armenia: “Thay mặt toàn thể người Armania, chúng tôi xin chào đón các bạn!” Lời chào đón nghe thật thân thiện. Giá mà đất nước nào cũng chào đón chúng tôi như vậy.
Chúng tôi đã bay được khoảng 2.600 dặm bằng với chiều rộng của Đại Tây Dương,

chúng tôi còn phải đi 20.000 dặm nữa. Mọi người đều thấy phấn chấn hồ hởi.
Ngày thứ tư, ngày 21/12/1998
Chúng tôi vẫn đang bay và chuyến đi của chúng tôi trở nên tuyệt vời hơn sau từng phút. Chúng tôi đã bay qua Thổ Nhĩ Kỳ qua con đường bí mật của chúng tôi qua Armenia và qua Mount Ararat. Từ đó, chúng tôi bay qua Azerbaijan, một bang độc lập mới của Liên Xô cũ, vượt qua biển Caspian, qua Turkmenistan và Uzbekistan (Những bang này có những cái tên thật tuyện vời). Khi chúng tôi bay qua Afghanistan, nơi bị cuộc nội chiến đẫm máu tàn phá nhiều năm liền. Afghanistan là một trong những đất nước mà Alexander Đệ nhất đã từng chinh phục.
Sau đó, vào sáng sớm hôm nay, chúng tôi gặp một viễn cảnh tuyệt vời nhưng khá đáng sợ: Những cơn gió đổi hướng đột ngột, và chúng tôi sẽ không thể bay về phía Bắc của dãy núi lớn nhất thế giới, chúng tôi chỉ có thể bay thẳng qua dãy núi này.
Dãy núi Hymalaya thật tuyệt vời, tôi chưa từng bay qua dãy núi này bằng khinh khí cầu.
Chúng tôi bay qua Nepal, một vương quốc hẻo lánh nằm giữa Ấn Độ và Tibet. Nepal được xem là nơi đức Phật đã sinh ra, nhưng cũng là nơi có ngọn núi cao nhất hành tinh – đỉnh Everest – cao hơn 9.000 mét.
Điều này nghe có vẻ tuyệt vời nhưng khi chuẩn bị cố gắng bay thì có trục trặc. Sự trục trặc này được gọi là “cú ngã tử thần”. Một khinh khí cầu có thể bị gió chặn lại và đâm vào vách núi khi đang bay ngang qua núi. Để tránh điều này, cứ 10mph chúng tôi cần phải bay cao 304 mét so với đỉnh núi.
Chúng tôi tính toán dựa trên tốc độ hiện tại của khinh khí cầu là 80mph, và điều này có nghĩa là chúng tôi phải bay cao hơn 2.438 mét so với đỉnh núi. Hiện tại, chúng tôi không thể bay cao hơn 9.144 mét, trong khi đó chúng tôi bắt buộc phải bay cao 12.192 mét so với đỉnh Everest để tránh va đập vào sườn núi.
Chúng tôi không thể làm như vậy. Liệu nhóm ở căn cứ có thể dẫn đường cho chúng tôi đi qua ngọn Everest và ngọn núi cao nhất K2 không?
Chúng tôi không biết điều gì sẽ xảy ra trong vòng vài giờ tới nên ngày mai nếu thành công tôi sẽ nói cho các bạn biết.
Ngày thứ năm, ngày 22/12/1998
Tôi vẫn ngồi đây viết nhật ký, điều đó có nghĩa là chúng tôi đã vượt qua ngọn Everest và K2. Trên thực tế, chúng tôi đã đi đúng đường giữa hai ngọn núi, lần này do may mắn nhiều hơn là kỹ năng vì ngọn núi quyết định hướng đi của chúng tôi và các ngọn núi này không cho chúng tôi bay qua.
Chúng tôi đã dành 24 giờ qua để bay dọc theo dãy núi tuyệt đẹp này. Vào ban ngày, các dãy núi mang một vẻ đẹp tuyệt vời. Khi đêm xuống, ở độ cao vài nghìn mét thì chúng mang

một vẻ kỳ quái. Một vấn đề nữa xảy ra với chúng tôi đó là băng ở trên đỉnh núi đã làm tắc van khí heli.
Khi trời sáng, rất nhiều băng tuyết rơi vào khoang lái của chúng tôi. Điều này thực sự là rất đẹp và tôi đã quay được cuốn phim tuyệt vời khi chúng tôi bay qua dãy Hymalaya.
Hannibal chắc hẳn sẽ rất tự hào về chúng tôi.
Vì gió không làm gì được chúng tôi và chúng tôi không gặp phải “cú ngã tử thần” mà tôi đã đề cập trong nhật ký ngày hôm qua.
Ngày thứ sáu, ngày 23/12/1998
Khi chúng tôi có ba tiếng bay qua biên giới Trung Quốc, họ đã tạc đạn vào chúng tôi. “Chúng tôi thu hồi lại giấy cho phép bay qua Trung Quốc. Các anh không thể bay vào biên giới Trung Quốc”. Chúng tôi không có lựa chọn nào khác. Chúng tôi không thể hạ cánh trên dãy Hymalaya. Điều này đồng nghĩa với cái chết. Những chuyến bay vào Trung Quốc khi không được phép là một vấn đề cực kỳ nghiêm trọng.
Ban đầu, người Trung Quốc đã cho phép chúng tôi bay qua phía Nam Trung Quốc. Vì chúng tôi bị cuốn vào dãy Hymalaya nên chúng tôi định bay vào Trung Quốc 50 dặm về phía Bắc của nơi họ yêu cầu.
Chúng tôi thuyết phục họ trong ba tiếng để họ cho chúng tôi bay vào. Tôi biết ông Edward Heath – cựu Thủ tướng Anh, một người có quan hệ rất tốt với Trung Quốc. Do đó, chúng tôi liên lạc với ông ấy. Tôi gọi cho Saskia ở văn phòng tôi và bảo cô ấy liên lạc với Tony Blair. Cô ấy nói “Nhưng tôi không có số của Downing Street”. Mệt mỏi và khá lo lắng, tôi cao giọng: “Quay số 192. Lấy số từ danh bạ điện thoại”.
Tony Blair có thể viết một bức thư riêng cho Đại sứ Zhu Rongji. Tôi cũng đã liên lạc với Peter Such, người đứng đầu hãng hàng không cạnh tranh với chúng tôi – hãng Cathay Pacific. Peter đang làm việc ở Hong Kong và đó là một người tốt bụng. Đại sứ Anh tại Bắc Kinh và nhóm của ông ấy cũng rất sẵn sàng giúp đỡ. Cuối cùng, nửa tiếng trước khi chúng tôi bay qua biên giới, chúng tôi nhận được tin có thể bay vào Trung Quốc miễn là bay ở phần cuối của đất nước này. Chúng tôi nhận ra rằng điều này là không thể. Gió đưa chúng tôi bay về phía Thượng Hải – đó là thành phố mà tôi đã thăm hai tuần trước, và là thành phố mà Virgin Atlantic Challenger đăng ký được thành lập đường bay.
Sau đó chúng tôi nhận được thông báo là Trung Quốc sẽ tổ chức một hội nghị ở Bắc Kinh và nói là chúng tôi đã vi phạm không phận khi không được phép – nếu chúng tôi không sửa chữa sai lầm thì hậu quả sẽ rất nghiêm trọng. Cùng lúc đó, chúng tôi nhận được một tin nhắn từ văn phòng ở London, thì kết quả của hành động này sẽ có thể là một máy bay chiến đấu hộ tống sẽ được cử đi. Chúng tôi xem lại và sẽ cố gắng tự điều chỉnh để phù hợp với luật lệ.
Chúng tôi đang bay trên tuyết, mây, những ngọn núi – nếu hạ cánh bây giờ tức là tự sát.

Chúng tôi nhận được một thông điệp từ Ủy ban Hàng không dân dụng Trung Quốc:
CHÚNG TÔI XIN THÔNG BÁO CÁC BẠN PHẢI HẠ CÁNH XUỐNG SÂN BAY LHASA VÀ KHÔNG ĐƯỢC TIẾP TỤC BAY TRÊN KHÔNG PHẬN CỦA CHÚNG TÔI VÌ CÁC BẠN KHÔNG THỂ TUÂN THEO CÁC YÊU CẦU CỦA CHÚNG TÔI. XIN VUI LÒNG LIÊN LẠC LẠI SAU. BẠN PHẢI ĐIỀU KHIỂN KHINH KHÍ CẦU THEO NHƯ YÊU CẦU CỦA LHASA. CÁM ƠN SỰ HỢP TÁC CỦA CÁC BẠN!
TRÂN TRỌNG,
Chỉ có câu “Cám ơn sự hợp tác của các bạn” là câu thân thiện duy nhất mà chúng tôi nghe được. Một khinh khí cầu không thể hạ cánh xuống sân bay được. Điều kiện thời tiết rất xấu, trời có thể tối trong hai giờ, chúng tôi đang bay qua những ngọn núi, và mang theo năm tấn nhiên liệu propane. Như thế chẳng khác nào yêu cầu chúng tôi phải tự sát. Tôi viết cho Văn phòng khinh khí cầu toàn cầu ICO, yêu cầu họ liên lạc với Trung Quốc và giải thích cho Trung Quốc về các rắc rối của chúng tôi. Chúng tôi nhận được hồi âm của họ sau một tiếng:
XIN THÔNG BÁO CÁC BẠN PHẢI HẠ CÁNH XUỐNG SÂN BAY. CÁC BẠN KHÔNG THỂ TIẾP TỤC BAY TRÊN KHÔNG PHẬN CỦA CHÚNG TÔI.
Chúng tôi đang ở trong tình huống mà dù có làm thế nào thì chúng tôi vẫn rơi vào rắc rối: Việc cố gắng hạ cánh đồng nghĩa với mất mạng, nếu chúng tôi tiếp tục bay mà không được cho phép thì đồng nghĩa với việc chúng tôi gần như chắc chắn sẽ bị bắn rơi.
Tôi liên lạc với Đại sứ Anh ở Bắc Kinh và giải thích về tình thế khó khăn của chúng tôi. Ông hứa rằng ông và nhóm của mình sẽ thức cả đêm để cố gắng giải quyết. Tôi gửi cho Đại sứ một mẩu thư để gửi cho phía Trung Quốc:
CHÚNG TÔI MUỐN THÔNG BÁO RẰNG RẤT KHÓ ĐỂ CHÚNG TÔI CÓ THỂ HẠ CÁNH BÂY GIỜ VÌ VIỆC ĐÓ SẼ GÂY NGUY HIỂM NGHIÊM TRỌNG ĐẾN TÍNH MẠNG CỦA CẢ ĐOÀN BAY VÀ MỌI NGƯỜI Ở DƯỚI MẶT ĐẤT. CHÚNG TÔI KHÔNG THỂ ĐIỀU KHIỂN KHINH KHÍ CẦU VÌ KHINH KHÍ CẦU DI CHUYỂN THEO HƯỚNG GIÓ. MÂY ĐÃ CHE PHỦ TẦM NHÌN VÀ CHÚNG TÔI KHÔNG THỂ NHÌN RÕ MẶT ĐẤT. CHÚNG TÔI KHÔNG THỂ HẠ ĐỘ CAO TRONG MÂY VÌ VIỆC ĐÓ SẼ TẠO RA BĂNG TRÊN KHINH KHÍ CẦU VÀ CHÚNG TÔI SẼ BỊ ĐÂM XUỐNG. CHÚNG TÔI MONG CÁC NGÀI HIỂU RẰNG CHÚNG TÔI ĐANG LÀM MỌI THỨ CÓ THỂ ĐỂ GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG NÀY VÀ VÔ CÙNG XIN LỖI VÌ KHÔNG THỂ LÀM THEO HƯỚNG DẪN. CHÚNG TÔI KHÔNG HỀ KHÔNG TÔN TRỌNG CHÍNH QUYỀN TRUNG QUỐC. CHÚNG TÔI CHỈ ĐANG TRONG MỘT TÌNH HUỐNG MÀ KHÔNG THỂ LÀM THEO VÀ CHÚNG TÔI KHÔNG THỂ QUYẾT ĐỊNH HẠ XUỐNG MÀ KHÔNG LÀM HẠI ĐẾN TÍNH MẠNG CỦA MỌI NGƯỜI. CHÚNG TÔI MONG CÁC NGÀI SẼ CHO CHÚNG TÔI THÊM THỜI GIAN ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ NÀY.
PHI CÔNG CỦA CHÚNG TÔI ĐÃ CỐ GẮNG LIÊN LẠC VỚI CÁC NGÀI TRÊN MỌI

TẦN SỐ NHƯNG KHÔNG ĐƯỢC. HỌ SẼ TIẾP TỤC LIÊN LẠC. XIN VUI LÒNG CHO CHÚNG TÔI BIẾT THÊM TẦN SỐ HF HOẶC VHF.
RẤT MONG NHẬN ĐƯỢC PHẢN HỒI!
Chúng tôi bay trong tâm trạng lo lắng. Sau tất cả những lời khẩn cầu cá nhân từ nhiều người khác nhau trên thế giới, chúng tôi hy vọng phía Trung Quốc sẽ không thực hiện điều gì quá đột ngột.
Sáng sớm hôm sau, chúng tôi nhận được một tờ fax:
DO CÁC THÀNH VIÊN NHÓM KHINH KHÍ CẦU TOÀN CẦU VIRGIN ĐÃ VI PHẠM CÁC NGUYÊN TẮC DO HAI BÊN ĐỀ RA VÀ LỜI HỨA CỦA PHÍA ANH LÀ KHÔNG BAY VÀO KHÔNG PHẬN TRONG KHU VỰC ĐỀ RA, PHÍA TRUNG QUỐC KHÔNG CÓ LỰA CHỌN NÀO KHÁC NGOÀI VIỆC YÊU CẦU KHINH KHÍ CẦU PHẢI HẠ CÁNH. VỚI YÊU CẦU CỦA NGÀI ĐẠI SỨ GALSWORTHY, PHÍA TRUNG QUỐC ĐÃ CỐ GẮNG ĐỂ VƯỢT QUA MỌI KHÓ KHĂN VÀ QUYẾT ĐỊNH CHO PHÉP KHINH KHÍ CẦU TIẾP TỤC CHUYẾN BAY CỦA MÌNH. NHƯNG YÊU CẦU KHINH KHÍ CẦU PHẢI RỜI KHÔNG PHẬN CỦA TRUNG QUỐC NHANH NHẤT CÓ THỂ. NẾU PHÍA TRUNG QUỐC CÓ YÊU CẦU GÌ THÌ PHÍA TRUNG QUỐC SẼ LIÊN LẠC VỚI PHÍA ANH.
Chúng tôi không thể nói hết lời cảm ơn đối với phía Trung Quốc. Xin cảm ơn các bạn! Ngày thứ bảy, ngày 24/12/1998
Một điều kỳ lạ xảy ra với tôi khi chúng tôi rời biên giới Trung Quốc. Tôi nhận được tin nhắn từ nước Anh:
XIN CHÚC MỪNG! VIRGIN ATLANTIC CHALLENGER ĐÃ ĐƯỢC CHO PHÉP LÀ HÃNG HÀNG KHÔNG DUY NHẤT ĐƯỢC BAY TRỰC TIẾP ĐẾN THƯỢNG HẢI TỪ ANH. BRITISH AIRWAYS ĐÃ BỊ TỪ CHỐI. HÃY MAU TRỞ VỀ NHÀ ĐI.
Tin nhắn này thật kỳ lạ. Mới chỉ phút trước tôi còn sợ bị bắn rơi trên bầu trời Thượng Hải trong một chiếc khinh khí cầu, phút tiếp theo tôi nhận được tin cho phép thực hiện chuyến bay 747 đến Thượng Hải.
Đó sẽ là một tin vui nếu chúng tôi không nhận ra là mình đang bay đến Bắc Triều Tiên. Dường như mọi quốc gia không chào đón những nhà du hành bằng khinh khí cầu lại rất có sức hút. Và Bắc Triều Tiên là một trong những đất nước quân đội khép kín và nặng nề nhất trên thế giới. Chúng tôi được khuyên là đừng bao giờ làm phiền họ bằng cách xin phép bay qua đất nước này.
Bob dùng bộ phận tăng tốc đề tìm hướng gió sẽ đưa chúng tôi đến Nam Triều Tiên.
Cùng lúc đó, Kevin Stass- người cùng với Erin Porter chiến đấu từ đầu để xin phép bay trên vùng trời của nước khác, nghĩ rằng chúng tôi cứ tiếp tục bay và liên lạc với Bắc Triều Tiên.

Trước sự ngạc nhiên và thích thú của tất cả chúng tôi, họ hồi âm rất nhanh, họ chào đón chúng tôi và cho phép bay qua không phận của nước họ. Có vẻ như đất nước này đã sẵn sàng trở thành một phần của thế giới. Cho dù lý do là gì đi nữa, chúng tôi thực sự biết ơn.
Đó là cơn đau đầu về chính trị cuối cùng mà chúng tôi gặp phải trước khi về nhà. Giờ chúng tôi chỉ phải bay qua đại dương lớn nhất thế giới, 5200 dặm qua Thái Bình Dương, châu Mỹ và sau đó là Đại Tây Dương.
Sau tất cả mọi việc đã xảy ra, trong năm ngày đầu tiên, chúng tôi chỉ bay được một phần ba quãng đường vòng quanh thế giới. Rất nhiều nhà du hành bằng khinh khí cầu đã mất mạng ở Thái Bình Dương khi cố gắng bay qua đây. 10 năm trước, vào ngày trước khi Per và tôi bay qua Thái Bình Dương thành công trên một chiếc khinh khí cầu, một nhà du hành bằng khinh khí cầu Nhật Bản đã cố gắng bay qua và mất mạng. Chỉ ba tháng trước, Steve Fosset đã gặp phải một trận bão trên Thái Bình Dương và bị rơi xuống gần Fiji.
Do đó, chúng tôi hết sức chú trọng đến Thái Bình Dương, và thật lạ là chúng tôi cảm thấy rất nhẹ nhõm khi khắc phục được các vấn đề về chính trị trong mấy ngày vừa qua nên chúng tôi có phần cảm thấy như chúng tôi sẽ có một chuyến đi không có những sự kiện kịch tính như vậy nữa. Chuyến bay qua Thái Bình Dương bắt đầu khá êm đẹp, chúng tôi bay qua Nam Triều Tiên vì Bob đã chuyển hướng khinh khí cầu trước khi nhận được thư cho phép bay qua Bắc Triều Tiên. Do đó chúng tôi đã bay qua núi Phú Sĩ và Kansai của Nhật Bản trong cảnh bình minh rực rỡ. Chúng tôi có thể nhìn thấy hàng nghìn người tụ tập lại trên phố nhìn lên khinh khí cầu khi chúng tôi bay ngang qua. Will Whitehorn, cánh tay phải của tôi, người đã từng ở Kansai, liên lạc với khinh khí cầu và nói rằng: “Đây là một trong những cảnh tượng ấn tượng nhất trong đời mà tôi được chứng kiến.”
Gió bắt đầu nâng chúng tôi lên và chúng tôi thấy nhẹ nhõm vô cùng. Tốc độ của chúng tôi là khoảng 150 đến 180mph. Chúng tôi bị cuốn vào đường máy bay và giờ chúng tôi cần nó. Chúng tôi đã sử dụng rất nhiều nhiên liệu khi bay qua dãy Hymalaya và cần phải chạy đua về nhà. Chúng tôi chỉ có năm hoặc sáu ngày để về nhà, và phải vượt qua hai phần ba quãng đường. Nhưng với tốc độ này, theo tính toán thì chúng tôi có thể bay qua Thái Bình Dương ít hơn 40 giờ đồng hồ; bay qua châu Mỹ mất một giờ, bay qua Đại Tây Dương mất một giờ và sau đó là về nhà. Tinh thần của chúng tôi đang lên cao; chúng tôi thực sự nghĩ chúng tôi đang có cơ hội.
Sau đó chúng tôi nhận được một thông điệp khẩn từ Bob Rice. Anh nói: “Chúng ta có một vấn đề tiềm ẩn cần quan tâm”. Nếu Bob lo lắng về vấn đề gì đó thì chúng tôi cũng vậy. Anh nói tiếp: “Đặc biệt là, có một vùng lõm ở ngoài kia kéo dài từ Hawaii đến phía Đông Bắc. Có thể nó sẽ đưa khinh khí cầu bay về phía Đông Bắc hướng đến Hawaii và quay trở lại Thái Bình Dương. Chúng ta cần phải đi vào vùng lõm trước khi nó kéo dài ra. Tốc độ tối đa là rất quan trọng: Tăng tốc trong bất kỳ hoàn cảnh nào.”
Chúng tôi hiểu ý của anh – nếu chúng tôi không đến đó đúng giờ thì chúng tôi sẽ bị đẩy về phía Bắc và sẽ bị rơi xuống biển. Hoặc, như Mike Kendrick – người chỉ huy của chúng tôi liên lạc chỉ năm phút sau đó nói: “Đây là vấn đề để cứu các bạn khỏi rơi xuống nước, do đó

vì Chúa, hãy bay nhanh lên.” Chúng tôi bay ở mức cao nhất có thể để có thể bay với tốc độ cao hơn, nhưng cũng chỉ bay thêm được năm hải lý ở độ cao này. Chúng tôi đã có một chuyến bay đêm dài để bay tới vùng lõm này. Bob xem lại các con số để xem liệu năm hải lý có đủ để đưa chúng tôi qua và bay đến châu Mỹ không. Nếu không thì khoang lái sẽ biến thành thuyền. Nhưng chúng tôi không có kế hoạch hoặc ý định thử điều đó!
Nhật ký kết thúc tại đây, chỉ là mọi thứ bắt đầu trở nên tồi tệ hơn. Tôi không hoàn thành cuốn nhật ký vì chúng tôi quá bận rộn trong việc tìm cách sống sót. Tôi nhớ rằng ngay trước khi đi ngủ vào ngày cuối cùng khi chúng tôi vượt qua Thái Bình Dương và tiến về nước Mỹ, nhà khí tượng học nói rằng chúng tôi sẽ trở về nhà trong hai ngày nữa. Gió thổi rất mạnh, khoảng 200mph, và như thể chúng tôi bay qua châu Mỹ vào ngày Giáng sinh với Chúa đang lắc lư phía dưới, và trở về nhà vào Ngày tặng quà.
Khi tôi chuẩn bị ngủ, tôi nghĩ rằng những trải nghiệm tuyệt vời như thế này là quá nhiều đối với một người trong suốt cuộc đời của họ, và cũng là quá may mắn. Chỉ khi tôi thức dậy và nhận ra rằng may mắn không đến với chúng tôi vào giây phút này và chúng tôi sắp rơi xuống Thái Bình Dương, và chúng tôi không phải là những người đầu tiên bay vòng quanh thế giới trên khinh khí cầu.
Thời tiết xấu đã xảy ra trước khi chúng tôi đến đích. Chúng tôi bay cao nhất có thể để vượt qua nó; chúng tôi bay thấp nhất có thể để vượt qua nó. Nhưng tất cả đều vô vọng. Thời tiết như thể là một bức tường gạch dày được xây lên ngay trên bờ biển nước Mỹ để ngăn cản chúng tôi.
Chúng tôi đã rất may mắn khi tìm ra hướng gió có thể đưa chúng tôi quay trở lại Thái Bình Dương, hướng về đảo Hawaii cách đó nghìn dặm. Khi chúng tôi cách đảo khoảng 60 dặm, chúng tôi đâm xuống biển. Khinh khí cầu bị sóng lôi đi, nảy lên mỗi lần khoảng 91 mét, giống như bom trong phim Dambuster. Mở cửa trên mái, chúng tôi trèo ra, cố níu giữ sự sống. Cuối cùng, khi khinh khí cầu đáp xuống biển khoảng 10 lần, chúng tôi nhảy ra và được trực thăng vừa bay tới kéo lên. Không còn thắc mắc tại sao Virgin lại tài trợ dịch vụ cấp cứu trực thăng của London.
Vào ngày Giáng sinh, tôi hạ cánh xuống Hawaii và quyết định đi tới đảo Necker, nơi cả gia đình tôi đang ở đó. Vào Ngày lễ tặng quà, khi hạ cánh xuống, tôi thấy một việc khá kỳ quái đang xảy ra khi tôi đến nơi. Trong nhà không có ai cả. Tất cả những người bạn tốt nhất của tôi, họ hàng tôi đều tập trung ở một nơi rất xa trên đảo, và đang tổ chức tiệc cho bọn trẻ. Lý do tại sao việc này lại kỳ quái là vì tôi đã từng viết thư bày tỏ mong muốn của mình vào hôm trước đó là nếu khinh khí cầu của tôi bị rơi, và thi thể tôi được tìm thấy, tôi muốn được chôn ở góc của hòn đảo. Tôi muốn những người bạn tốt nhất của tôi và gia đình tôi có mặt ở lễ tang của mình, tôi muốn nằm xuống mãi mãi trên mảnh đất đặc biệt này. Và một điều lạ là tôi có mặt ở đây, nhìn xung quanh và suy nghĩ. Lạy Chúa tôi! làm sao có thể có một bữa tiệc lạ lùng này.
Và đó là lúc mà tôi nghĩ, được rồi, tôi đã có những trải nghiệm tuyệt vời; có người đã rất tốt bụng với tôi và tôi đã cứu sống họ. Những thành tích này đã giúp tôi đưa Virgin lên bản

đồ, đưa tôi lên bản đồ, và đem đến cho tôi những ký ức đẹp để tôi kể với con cháu tôi vào một ngày nào đó. Nhưng tôi đã đẩy vận may của tôi đi xa tới mức mà tôi nên đẩy. Giờ tôi có thể thấy rằng, nếu tôi có thể sử dụng vị trí của mình – nơi tôi có thể nhấc điện thoại lên gọi cho Tổng thống Mandela hay Bill Clinton hay Tony Blair và được chuyển máy trực tiếp để nói chuyện với họ – thì tôi có thể làm điều gì đó đáng giá. Sử dụng sức mạnh và vị trí của mình để hoàn thành ước mơ của tôi là cố gắng thay đổi thế giới từ khi tôi mới 15 tuổi, bắt đầu một tạp chí và viết bài báo đầu tiên của mình. Tôi đã luôn luôn cố gắng sử dụng vị trí của mình để làm từ thiện. Khi Diana qua đời, tôi đã quay về từ Mỹ và như những người khác, tôi bị ảnh hưởng nhiều bởi cái chết của bà. Nhưng, như là một người bạn tốt của công chúa, tôi cảm thấy một việc quan trọng đó là tôi cố gắng tìm ra cách khiến mọi thứ trở nên tích cực hơn qua cái chết của bà. Do đó tôi quyết định lưu giữ những hình ảnh đẹp nhất vào một cuốn album của bà và cam kết đem 100% lợi nhuận thu được để gây quỹ tưởng nhớ Diana. Eric Clapton, Sting, George Michael, Chris de Burgh và Paul McCartney đều sẵn lòng đóng góp. Nhưng tôi muốn một bài hát thật hay, một bài hát có thể phản ánh cuộc đời của Diana và bài hát đó có thể được cất lên tại đám tang của bà và sau đó đưa bài hát vào trong album.
Tôi biết Elton John là một người bạn của Diana nên tôi hỏi ông liệu có thể chuẩn bị biểu diễn ca khúc Candle in the Wind (Ngọn nến trong gió) tại đám tang không và liệu Bernie Taupin có thể điều chỉnh lời để bài hát phù hợp với hoàn cảnh không. Tôi nói rõ là tôi muốn đưa bài hát vào album gửi tặng công chúa. Tất cả việc này cần phải được làm rõ không chỉ với gia đình của Diana và Hoàng hậu mà còn với cả nhà thờ. Sau ba ngày thương lượng, Hoàng hậu quyết định không cho phép tôi thực hiện nên tôi gọi cho Tony Blair để nhờ ông can thiệp. Thật may mắn là ông đã thuyết phục được Hoàng hậu, một phần vì Candle in the wind của Elton John đã giành được sự tưởng thưởng của toàn thể thế giới và làm cho một việc cực kỳ khó khăn với mọi người trở nên bớt nhói đau.
Vào lúc sự nghiệp của Elton John tạm lắng xuống, thì sự việc làm tôi bất ngờ là vào mấy ngày sau đó, Elton rút lại sự cho phép đĩa đơn đó đi làm từ thiện. Tôi đã gửi cho ông ấy một bức thư dài thể hiện sự tức giận của tôi, và ở đây tôi không muốn công khai bức thư đó.
Nhưng, nếu đó là cách những việc này được thực hiện thì có ai đó vô nguyên tắc sẽ thấy rằng khi lục soát thùng rác của Elton và chắc hẳn bài hát đó được lên trang nhất của tờ báo Sun. Thật may là album tưởng nhớ của chúng tôi tiếp tục kiếm được hàng triệu bảng và là đĩa đơn lớn nhất đóng góp vào quỹ tưởng nhớ công chúa xứ Wales – Diana. Và bài hát Candle in wind trở thành đĩa đơn bán được nhiều nhất trong lịch sử âm nhạc với 33 triệu bản được bán ra.
Điều mà tôi luôn nghĩ là Virgin nên là một công ty nào đó lớn hơn chứ không phải chỉ là một cái máy in tiền, và Virgin có sự thịnh vượng của một quốc gia nhỏ, chúng tôi nên sử dụng sự thịnh vượng đó để giải quyết các vấn đề xã hội nhiều hơn trong quá khứ. Các công ty phải có trách nhiệm giải quyết các vấn đề đó. Một vài năm trước, Bill Gates đã đầu tư một số tiền khổng lồ vào việc phát triển vắc-xin chống lại các căn bệnh chết người. Mặc dù ông đã có thời kỳ khó khăn, sức ép tồi tệ mà Microsoft nhận được nhưng ông vẫn đóng góp nhiều cho cộng đồng. Ông là một ví dụ tiêu biểu cho các doanh nghiệp khác noi theo.

Khi tôi ở Nam Phi, tôi đã đến thăm các bệnh viện, đặc biệt là các bệnh viện ở Soweto.
Tôi đã nhìn thấy một số lượng lớn người mà cuộc sống của họ đang bị phá hủy bởi căn bệnh HIS/AIDS, trong đó có hàng triệu trẻ em đã trở thành trụ cột gia đình ở độ tuổi lên chín.
Sau khi thực hiện chương trình Mates in UK (Bạn bè ở Anh Quốc), Virgin tiếp tục hỗ trợ rất nhiều tổ chức trong cuộc chiến chống lại HIV/AIDS trên thế giới, nhưng sau chuyến đi này tôi thề rằng chúng tôi sẽ làm nhiều hơn nữa để góp phần giúp ngăn chặn căn bệnh này phá hủy các thế hệ tương lai.
Ở châu Phi, tôi cũng là người hỗ trợ cho một tổ chức đang cố gắng đảm bảo rằng con số 2% diện tích đang được dành cho động vật hoang dã ở châu Phi tăng lên từ 4 đến 5% để cho các loài động vật hoang dã có chỗ để sinh tồn – những khu vực đó không dành cho gia súc và nông nghiệp. Trong số các loài động vật trên thế giới mà tôi thích có loài chó hoang châu Phi, một giống đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Con cháu đời sau sẽ được kế thừa nếu chúng ta dành gấp đôi diện tích đất để bảo vệ các loài động vật hoang dã, cho chúng cơ hội để tồn tại lâu dài hơn.
Ở một nơi khác trên thế giới, phía Bắc Ai-len, đã chứng kiến nhiều rắc rối hơn thế. Mặc dù luôn có những người có quan điểm quá khích từ cả hai phía – những người Công giáo theo Đảng Cộng hòa và những người đạo Tin lành theo chủ nghĩa hợp nhất – trong những năm 1990, dân chúng ngày càng trở nên mệt mỏi vì các bè phái đánh bom và chém giết lẫn nhau. Vào tháng 5/1998, Mowlam được chỉ định làm thư ký của Bắc Ai-len – một sự lựa chọn sáng suốt. Mo là một người phụ nữ có tư tưởng hoàn toàn thực tế, bà có thể liên kết với những người đàn ông và phụ nữ trên phố (theo nghĩa đen – khi cần). Bà quyết định dẫn đầu các chính trị gia và trực tiếp gặp mặt người dân để tổ chức cuộc trưng cầu dân ý về tương lai của Ai-len. Nếu bà thắng, hòa bình sẽ được thiết lập mãi mãi. Nếu bà thua, thì đất nước sẽ quay trở lại 30 năm trước, thời điểm có khoảng 3.500 người đã bị giết. Cuộc trưng cầu dân ý đề xuất rằng Bắc Ai-len nên là một phần của nước Anh nhưng nếu một ngày đa số công dân của Bắc Ai-len muốn thống nhất Ai-len và họ bỏ phiếu, thì họ sẽ có được điều đó.
Hai ngày trước cuộc bỏ phiếu, kết quả dường như không chắc chắn. Mo là một người bạn cũ của tôi và bà gọi điện rủ tôi dạo phố cùng bà. Tôi nghĩ rằng Mo cảm thấy tôi rất nổi tiếng ở Ai-len nhờ có chuyến bay bằng khinh khí cầu và cuộc thám hiểm bằng thuyền của tôi và bà nghĩ rằng tôi không có mối liên hệ nào đến chính trị và tôn giáo; bà có thể cũng muốn gửi đi một thông điệp rằng với hoà bình thì sự thịnh vượng sẽ đến dưới dạng đầu tư kinh doanh.
Ngày hôm sau, tôi đến Heathrow cùng với một nhân viên PR là Wendy, người đến từ Bắc Ai-len. Ở phòng đợi, cô quay sang tôi và nói: “Richard, tôi xin lỗi. Tôi không thể đi cùng anh. Bố tôi sẽ giết tôi nếu ông nhìn thấy tôi đi cùng anh để thực hiện chiến dịch cho hiệp ước hòa bình”. Tôi chưa bao giờ nghĩ về cô ấy như là một người theo đạo Thiên chúa giáo hay đạo Tin lành, tôi chỉ nghĩ cô ấy là một người Ai-len vui vẻ. Tôi thấy rằng công việc mà Mo đang làm thật là khó khăn.
Cuối cùng, tôi thuyết phục được Wendy đi cùng tôi. Cô ấy đã dũng cảm ở cùng Mo và tôi

suốt cả ngày. Vào cuối ngày, Wendy bị thuyết phục bởi những ý kiến nên cô đã quyết định bỏ phiếu “Thuận” và đã thuyết phục mẹ và chị gái cô bỏ phiếu giống như cô. Thật không may, cô nhận ra rằng cô không thể thuyết phục được bố của mình.
Đêm hôm đó, sau khi đi dạo trên con phố ở phía Bắc Ai-len và bắt tay với hàng trăm người, chúng tôi trở về Hillsborough Castle, nơi ở tuyệt đẹp của Bộ trưởng Bắc Ai-len, để ăn tối và đánh cược về kết quả. Cuối cùng, tôi biết rằng chuyến đi của tôi có bốn phiếu bảo đảm.
Vào ngày hôm sau tôi nhận được tin tốt lành, đó là bên bỏ phiếu “Thuận” đã chiến thắng. Cuối cùng thì hòa bình đã đến với Ai-len. Vì hòa bình là do mọi người bỏ phiếu nên có cảm giác như là nền hòa bình này sẽ kéo dài.
Trong cuộc đời tôi, tôi hy vọng những điều bất ngờ sẽ xảy ra. Nói thì có vẻ dễ nhưng tất cả mọi thứ đã xảy ra với tôi, với gia đình tôi, với Virgin đã dạy tôi rằng bạn phải luôn sẵn sàng để giải quyết mọi điều bất ngờ. Bạn phải tìm ra cách tốt hơn để đứng dậy và tiếp tục bước đi. Nhưng chưa có việc gì mà tôi gặp phải lại khiến tôi sẵn sàng đương đầu như sự kiện xảy ra vào ngày 11/9/ 2001.
Lúc đó là vào khoảng 3 giờ 15 phút chiều tại Brussels, tôi đang định đứng dậy để giải quyết một yêu cầu khác của Liên minh châu Âu tham gia cạnh tranh. Tôi đã tham gia hàng chục những cuộc họp như thế này, và không có điều gì bất thường về ngày tháng Chín đó.
Những bộ vét màu xám, họ ngồi đó và dường như đối đầu với chúng tôi. Tôi biết sức mạnh của vị thế mà chúng tôi đang nắm giữ, nên tôi nghĩ sau cuộc họp đó tôi sẽ về nhà, lên kế hoạch quay trở lại công việc sau khi đi nghỉ với gia đình ở Necker. Cuộc họp lần này là không phải về hàng không, cũng không phải là về công việc kinh doanh âm nhạc, việc buôn bán lẻ hay về đường sắt, cuộc họp đề cập đến một chủ đề cực kỳ “thú vị” đó là “miễn trừ chung” đối với các nhà sản xuất xe hơi của châu Âu. Hay nói cách khác, cuộc họp nói về việc các nhà sản xuất xe hơi đang bán giá quá đắt cho chúng tôi bằng cách kiểm soát các hãng bán hàng, và về giá cả mà họ bán xe cho chúng tôi. Tôi có mặt ở đó vì qua nhiều năm thế giới Internet và các bưu điện hạ chi phí phân bố, và Virgin có thể bán mà chuyển xe trực tiếp đến người tiêu dùng với giá rẻ hơn khoảng 25% so với các ga-ra ô tô đầu cơ. Năm ngoái, chúng tôi đã bán hơn 6.000 chiếc ô tô.
Khi tôi chuẩn bị tấn công một cách chủ quan vào quyền lợi bảo đảm bất di bất dịch của những người đang ngồi quanh tôi trong căn phòng này, có ai đó chuyển một mẩu tin nhắn cho vị chủ tọa, vị chủ tọa nhìn mẩu tin nhắn với nét mặt tái mét và thông báo một tin giật gân đó là New York vừa bị khủng bố tấn công bằng máy bay. Sau đó ông hỏi tôi có muốn tiếp tục cuộc họp không. Không ai trong chúng tôi biết được mức độ nghiêm trọng của vụ tấn công như thế nào nhưng mọi việc nghe có vẻ không ổn chút nào; có người lo lắng rằng tòa nhà của Liên minh châu Âu cũng có thể là một mục tiêu khủng bố. Tuy nhiên, tôi quyết định tiếp tục phát biểu và trả lời các câu hỏi của các thành viên của Quốc hội châu Âu dù biết tâm trí mọi người đang hướng đến New York.
Một giờ sau đó, tôi định lên tàu trở về trụ sở chính khi cố gắng đi qua London. “Có vẻ

nhưng khủng bố Trung Đông đã dùng bốn máy bay” – Will nói. “Tòa tháp đôi đã bị sập xuống và có khoảng 10 nghìn người thiệt mạng. Bản tin đang đưa tin có một máy bay khác đang bị cướp. Không phận của Mỹ đã đóng cửa. Khi anh đi vắng, các máy bay đã quay trở về; chỉ có ba máy bay đã đi quá điểm giới hạn và không trở về được. Vì họ vừa đóng cửa không phận Mỹ. Tôi nghĩ chúng ta nên nói chuyện chi tiết hơn khi anh trở về và ngày mai tất cả sẽ tập trung ở Holland Park”.
Khi ngồi trên tàu cùng với Giám đốc điều hành của công ty ô tô Virgin Cars, tôi bắt đầu cảm thấy khiếp sợ. Người phụ nữ ngồi đối diện tôi làm việc ở ngân hàng, và đang phát điên lên gọi điện cho bạn mình ở London và New York để hỏi thông tin. Bà ta bắt đầu nói cho chúng tôi nghe từng thông tin mà bà ấy biết: Các nhà môi giới của Cantor Fitzgerald đã thiệt mạng; một số ngân hàng Pháp và Mỹ có tổn thất. Nỗi đau đớn của bà là bằng chứng và tôi đã làm những gì có thể để giúp bà ấy. Tôi chưa được nhìn thấy bức hình nào nhưng nhìn vào nước mắt của bà ấy, tôi có thể biết được mọi việc đang diễn ra kinh khủng như thế nào.
Chỉ buổi sáng hôm ấy, tôi nghĩ lại cách mà các công ty đang vận hành. Tôi nghĩ đến ngày 11/9, Virgin Atlantic Challenger tiếp tục kể câu chuyện thành công đáng kể của mình. Hãng hàng không Singapore Airlines trở thành đối tác của chúng tôi, họ trả 600 triệu bảng để mua 49% cổ phần trong tháng 3/2000, và chúng tôi giữ vững lợi nhuận chuyến bay qua Bắc Đại Tây Dương vào năm 2001. Công việc kinh doanh năm nay rất thuận lợi trong khi các công ty khác đang phải vật lộn với chi phí tăng cao không kiểm soát được, dịch vụ kém thân thiện và đội máy bay đang cũ đi. Thật vậy, tôi cảm thấy tự tin về công việc kinh doanh mà mình đang tiếp tục mở rộng bằng cách khai trương một đường bay mới ở Australia trong một năm tính đến ngày xảy ra thảm họa ở Tòa tháp đôi. Đường bay đó được đặt tên là Virgin Blue và dựa vào mô hình giá rẻ của hãng hàng không Southwest Airlines. Mặc dù đồng đô-la của Australia yếu và chi phí nhiên liệu cao nhưng công việc kinh doanh phát triển tốt, giá vé giảm và số người sử dụng đã tăng lên gấp đôi.
Đây không phải là vụ đầu tư duy nhất trong vòng một vài năm trở lại đây. Chúng tôi đã đầu tư rất nhiều để hợp lý hóa Virgin và thương hiệu của công ty vào cuối những năm 1990 và vào ngày 11/9, chúng tôi sẵn sàng đưa ra một chiến lược rõ ràng dựa vào ý tưởng “vốn đầu tư liều lĩnh”. Thay vì kết hợp với nhiều công ty con, Virgin trở thành một nhà đầu tư đa ngành. Do đó, chúng tôi chọn các lĩnh vực kinh doanh một cách cẩn thận, cố gắng tạo ra cạnh tranh cho các ngành mà người tiêu dùng được hưởng lợi. Sau đó chúng tôi tìm được các đối tác và các nhà quản lý tốt có thể tiếp tục công việc kinh doanh, với mục tiêu sau cùng là để họ tự đứng trên đôi chân của mình, giống như cách Virgin Records và Virgin Radio đã làm.
Nhưng chúng tôi hướng sự tập trung vào việc liệu chúng tôi có thể tạo ra sự khác biệt trong những năm tiếp theo hay không. Trong một năm, tôi đi du lịch vòng quanh thế giới gần 250 ngày, cố gắng biến Virgin trở thành một thương hiệu được tín nhiệm nhất thế giới, không cần phải là thương hiệu lớn nhất nhưng phải là thương hiệu tốt nhất.
Chúng tôi xây dựng một nhóm quản lý tuyệt vời cả ở Anh và các quốc gia khác, họ là

những tai mắt tại tất cả các công ty, do đó các cơ hội đầu tư mới đến với tốc độ nguy hiểm trong vòng hai năm qua. Công ty Virgin Active trở thành chuỗi câu lạc bộ sức khỏe lớn thứ ba trên thế giới; trang thetrainline.net, dịch vụ đăng ký vé tàu qua mạng Internet có năm triệu khách hàng tính đến ngày 11/9. Virgin Mobile là công ty điện thoại phát triển nhanh nhất ở châu Âu, và vào một ngày định mệnh, chúng tôi chuẩn bị thương lượng với Sprint để đưa những chiếc điện thoại giới thiệu với người dân Mỹ.
Là một phần của việc mở rộng công ty điện thoại Mobile, cuối cùng chúng tôi quyết định từ bỏ nhãn hiệu Our Price. Từ khi mua công ty từ WHSmith vào năm 1998, chúng tôi quyết định sẽ đặt tên lại thành Virgin để công ty này tiếp bước thành công cùng chuỗi Megastore. Công ty đó xuất hiện cùng với các công ty khác của Virgin trên đường cao tốc đã giúp Virgin Mobile đạt được số lượng khách hàng là hai triệu khách vào đầu năm 2002, và bây giờ công ty có hơn 5 triệu khách hàng.
Một trong những việc mà tôi kiểm tra đầu tiên sau khi nghe về vụ khủng bố đó là liệu có ai mà chúng tôi quen biết có mặt trong vụ khủng bố này không. Frances Farrow, người đã từng làm việc với chúng tôi trong công ty hàng không ở đây đã chuyển về New York cưới vợ vào mùa xuân năm đó, và cô ấy sống gần hai Tòa tháp đôi. Cô ấy đã giúp công ty Virgin Mobile thương lượng với Sprint. Chúng tôi mất liên lạc với cô ba ngày trước; sau đó, chúng tôi biết rằng khi tòa tháp thứ nhất bắt đầu sụp xuống thì cô ấy đang lái xe gần khu Trung tâm Thương mại Thế giới. Thật may mắn, tất cả những người họ hàng và bạn bè của chúng tôi đã gọi điện và báo rằng họ vẫn an toàn.
Nhưng điều may mắn này không xảy đến với tất cả mọi người, và tôi linh cảm thấy điều gì đó chẳng lành khi gọi điện cho Howard Lutnick – Chủ tịch công ty “Cantor” nổi tiếng trong thành phố. Vào đêm ngày thứ 6, James Kyle của Cantor Fitzgerald đã gọi cho Will Whitehorrn, đây là công ty có hàng trăm nhân viên đã mất mạng trong thảm kịch này. Họ muốn đưa các thân nhân của người thiệt mạng đến New York một cách khẩn cấp, nhưng do toàn bộ bộ máy hoạt động của họ đã đóng cửa để trả nợ nên họ cũng không biết liệu họ có thể tiến hành kinh doanh khi thị trường mở cửa trở lại hay không. Vào sáng ngày thứ Bảy, chúng tôi đồng ý chở lượng hành khách nhiều nhất có thể bay vượt qua Đại Tây Dương.
Cho dù chúng tôi có gặp rắc rối gì đi chăng nữa thì rắc rối mà hành khách đang gặp phải còn tồi tệ hơn chúng tôi rất nhiều.
Howard gọi cho tôi vào buổi chiều ngày hôm đó để nói lời cám ơn. Tôi không thể tưởng tượng được quãng thời gian tồi tệ mà anh ấy đang phải trải qua, đối mặt với sự mất mát của hầu hết các đồng nghiệp thân thiết. Anh nói: “Cám ơn anh vì tất cả những điều anh đang làm cho chúng tôi. Điều này rất có ý nghĩa đối với mọi người ở Cantor”. Tôi cảm thấy bối rối vì chúng tôi chỉ có thể làm được bấy nhiêu thôi, đặc biệt là khi tôi biết rằng sau cuộc gọi đầy tình cảm và lịch thiệp ấy thì anh ruột của anh ấy là Gary cũng đã thiệt mạng trong vụ khủng bố.
Trong nhật ký của tôi ngày 12/9, tôi có ghi: “RB- họp cả ngày tại Holland Park”. Tất cả những người đến họp vào buổi sáng ngày hôm đấy đều mang vẻ mặt đau buồn. Ngồi ở

trong phòng khách có Richard Bowker, Patrick McCall, Will Whitehorn, Mark Poole và Simon Wright. Thật buồn cười là không ai trong số họ là người của Virgin Atlantic Challenger. Steve Ridgway – Giám đốc điều hành, và nhóm của anh ấy đã thực hiện các bước khẩn cấp và bắt đầu một cuộc rà soát toàn bộ hoạt động kinh doanh khẩn cấp trong 72 giờ để đưa ra các kiến nghị xem chúng tôi nên làm gì vào ngày thứ Sáu của tuần đó. Nhưng tất cả chúng tôi, những người đang ngồi quanh chiếc bàn tại Holland Park, đều biết rằng chúng tôi phải tiến hành thật nhanh. Lộ trình vượt Đại Tây Dương đã tiến gần đến với chúng tôi và lượng hành khách giảm một cách đột ngột, Virgin Atlantic Challenger thiệt hại 1,5 triệu bảng mỗi ngày. Buổi sáng hôm đó, tôi đã nói chuyện với Giám đốc mới của BA, một người Australia vui vẻ tên là Rod Eddington, ông nói với tôi rằng BA có thể thua lỗ 8 triệu bảng mỗi ngày. Tôi gợi ý rằng chúng tôi nên hợp tác với nhau để đề nghị Chính phủ hỗ trợ khi không phận Mỹ mở cửa trở lại. Ông ấy đã khiến tôi cảm thấy phấn khởi khi trả lời ngay lập tức rằng: “Được! anh bạn của tôi. Tôi sẽ gọi cho anh vào đầu tuần tới.”
Sự thật rằng BA sẽ lâm vào tình thế khó khăn hơn cả tình cảnh không gì an ủi được của nhóm sáu người chúng tôi đang ngồi trong phòng khách vào ngày tháng Chín nắng đẹp đó. Khi chúng tôi lập một danh sách những gì chúng tôi phải làm, chúng tôi biết rõ rằng mình có đủ tiền mặt trong các công ty khác nhau để vượt qua tình cảnh tồi tệ nhất, nhưng lỗ đen tiềm tàng tại Virgin Atlantic Challenger cần phải được đóng lại nhanh nhất có thể. Những người khác không chắc chuyện gì sẽ xảy ra với đối thủ của chúng tôi. Chúng tôi biết rằng Sabena ở Brussels và Ansett ở Australia đang có kế hoạch triển khai hoạt động nhưng liệu họ có tồn tại được không?
Vào cuối tuần, chúng tôi thực hiện những kế hoạch khẩn cấp mà chúng tôi đề ra. Nhóm của Virgin Atlantic Challenger đã làm rất tốt việc đánh giá điều xấu trong thị trường giữa Mỹ và Anh, và sau đó lập một kế hoạch tái cơ cấu khẩn cấp. Có một vài điểm không hay đó là: Hãng hàng không ở Mỹ có khoảng hơn 1.200 khách, và họ đã làm những gì có thể để bảo toàn hàng nghìn khách. Điều quan trọng hơn, họ chuyển sang sử dụng máy bay lớn hơn để đến châu Phi như chuyến 747-400s, và sử dụng máy bay nhỏ hơn như Airbus để bay đến Bắc Đại Tây Dương.
Vào sáng ngày Chủ nhật, chúng tôi quyết định tái cơ cấu và nói với nhân viên của chúng tôi vào ngày thứ Hai. Tôi sẽ không bao giờ quên vẻ thanh lịch và sự chuyên nghiệp về cách mà họ nhận tin và sau đó tiếp tục với công việc của mình. Tháng tiếp đó là một tháng khó khăn, nhưng trong tuần đầu tiên thì chúng tôi gọi đó là một tuần tốt đẹp: Vào dịp Giáng sinh, Virgin Atlantic Challenger đã vượt qua được tình thế khó khăn nhất và sẽ tồn tại.
Điều này không phải dựa vào việc đối thủ cạnh tranh ở Mỹ đã cùng chúng tôi nhờ đến Chính phủ và chúng tôi đã nhận được tiền hỗ trợ từ Chính phủ. Điều đó có thể khiến họ vượt qua thời kỳ khó khăn nhưng tất cả chúng tôi đều thấy rằng họ mất nhiều thời gian hơn để cư xử theo cách ít mang tính cạnh tranh hơn là họ vẫn làm.
Điều nực cười của tình huống này đó là: Chúng tôi không chỉ đã xây dựng được một đội làm việc tuyệt vời mà cho đến ngày 11/9, chúng tôi làm ăn đã có lãi. Điều khiến tôi lo lắng nhất đó là chúng tôi phải xử lý thế nào đối với những người bị buộc phải nghỉ việc. Một

điều rõ ràng đối với tất cả những người có liên quan, không chỉ rất nhiều người già và người làm việc bán thời gian đã đến giúp đỡ và làm tình nguyện, ngay cả những người ở lại đã góp công làm cho Virgin Atlantic Challenger được như ngày hôm nay. Điểm đổi mới của hãng hàng không như sử dụng ghế nằm và dịch vụ mát xa trên máy bay đã khiến cho hành khách cảm thấy thoải mái hơn đã khiến chúng tôi trở thành hãng hàng không đầu tiên lắp cửa Kevlar chống đạn để đảm bảo sự an toàn của hành khách.
Ban điều hành của Virgin Atlantic Challenger đã từng cảm thấy khó khăn hơn để chuyên tâm như trước đây nếu họ phải lo lắng về việc vận hành modem xử lý ngắn, nhưng với mô hình đầu tư mới của Virgin thì họ không phải lo lắng về điều đó nữa. Chúng tôi có hai hãng hàng không khác, Virgin Express ở Brussels và Virgin Blue ở Brisbane, Úc, cả hai hãng hàng không này đều đang vận hành một cách độc lập và công khai định giá vé. Những ảnh hưởng của ngày 11 tháng Chín lên công việc kinh doanh của hai hãng này hoàn toàn khác nhau nhưng thử thách cho cả hai thì như nhau. Một trong hai hãng đã phải đối mặt với sự sụp đổ của dịch vụ vận tải quốc doanh (Sabena) và hãng còn lại thì phải đối mặt với sự sụp đổ của hãng đối thủ cạnh tranh là Ansett. Cả hai hãng hàng không này đều phải cơ cấu lại và phát triển công việc kinh doanh của họ. Mỗi hãng đều có khả năng tập trung hoàn toàn vào các vấn đề của riêng mình.
Tương tự, công ty Virgin Mobile đã phải sớm đối mặt với những thử thách trong thế kỷ XXI phát sinh tại thị trường Anh, thất bại tại thị trường Singapore và họ phải quyết định xem có nên mở rộng tại thị trường Mỹ hay không. Nếu Virgin Mobile là một công ty hợp nhất thì họ sẽ không thể thực hiện được các quyết định này, nhưng vì họ có nhiều công ty cổ phần riêng lẻ, nên các ban quản lý có thể tập trung vào từng công việc của mình. Vào tháng Mười, chúng tôi có một quyết định quan trọng đó là tiếp tục bắt đầu Virgin Mobile tại thị trường Mỹ cùng với đối tác là Sprint, và bắt đầu xây dựng quỹ tài chính 500 triệu đô- la.

Đây không phải là kế hoạch phác thảo. Rõ ràng là nền kinh tế Mỹ đang rơi vào suy thoái nhưng việc kinh doanh điện thoại di động đang bắt đầu bùng nổ ở Mỹ sau tình trạng bất ổn diễn ra thảm họa ngày 11/9. Mô hình điện thoại trả trước giá rẻ của Virgin có vẻ như là một giải pháp lý tưởng để thu hút thị trường trẻ, mô hình này không mấy thiện cảm với điện thoại di động và tin nhắn theo cách mà thu hút thị trường trẻ ở châu Âu, châu Phi và châu Á.

Trong vòng hai tuần tiếp theo, vào ngày 7/10, cuộc chiến chống khủng bố bắt đầu nghiêm trọng khi các vụ đánh bom và tàu tuần tra trên biển bắt đầu phóng tên lửa vào các vùng đất của Afghanistan. Thật là khó để có thể tập trung vào những thời điểm như thế này theo như tôi biết kể từ chiến tranh vùng Vịnh lần I, nhưng mọi người vẫn làm việc của mình. Cú sốc tiếp theo xảy đến đó là tập đoàn nhà cung cấp lớn nhất của công ty đường sắt Virgin Rai Group là Railtrack bị phá sản. Đó là một tai họa của công chúng sử dụng dịch vụ đường sắt và của Virgin, vì đó là thời gian chúng tôi đang thương lượng để nâng cấp tuyến đường bờ Tây. Một lần nữa, Nhóm quản lý tận tụy, những người không phải lo lắng gì về các hoạt động khác của các công ty cổ phần hữu hạn, đã nhanh chóng hiểu được hậu quả của

việc này,
Tuy nhiên, một cú sốc nữa xảy đến đó là khi Chính phủ chỉ định Richard Bowker trở thành người đứng đầu nhóm lãnh đạo đường sắt – chiến lược Strategic Rail Authority. Là đồng chủ tịch của Công ty đường sắt Virgin Rail, ông đã làm được một việc xuất sắc trong việc điều phối thủ tục tàu mới của chúng tôi. Điều này được chứng minh khi những con tàu đầu tiên của chúng tôi được nhà máy chuyển đến đúng thời hạn và hợp với ngân sách vào tháng 11/2001. Ngược lại, chi phí của Railtrack để nâng cấp đã tăng lên bốn lần và sẽ hoàn thành muộn vài năm.
Đó là giây phút đáng tự hào và đầy nước mắt, tôi đứng tại nhà máy Alstom ở Birmingham vào một ngày tháng 11 đầy nắng và lạnh, ngắm nhìn Joan viết tên lên một trong những con tàu mới của chúng tôi – Virgin lady. Giây phút này còn tuyệt vời hơn giây phút ngồi bên đống lửa vào buổi chiều khi tôi đang ngồi xem bản tin lúc 6 giờ và nghe được tin mà tôi đã phải chờ đợi trong 5 năm: “Virgin đã thực hiện theo đúng lời hứa”. Điều này thật là khó khăn, vì tất cả các đơn đặt hàng đều đã được đặt vào năm 1998 và cho dù gặp phải những khó khăn về công nghệ, Virgin đã sản xuất ra con tàu tiên tiến nhất thế giới, có thể rẽ với tốc độ 140mph (225kph). Dĩ nhiên, điều trăn trở đó là đường ray sẽ không sẵn sàng cho tốc độ 125-mph cho tới năm 2004.
Mùa đông năm 2001, nhóm quản lý tài chính của Virgin Rail đã phải làm việc thâu đêm suốt sáng trong nhiều ngày để thương lượng với Railtrack, ban quản lý của Railtrack là Strategic Rail Authority, Bộ Giao thông và các nhà cung cấp tàu để đảm bảo các con tàu của chúng tôi sẽ có được loại đường ray xứng đáng – cũng như hành khách và dịch vụ xứng đáng. Tôi nghĩ thật nực cười khi những lời chỉ trích về việc nâng cấp đường sắt của chúng tôi vào năm 1997 đã dự đoán rằng chúng tôi sẽ không bao giờ có được những con tàu mới và chúng tôi sẽ phá sản nếu cố gắng theo đuổi nó. Những thành công mang tính vật thể về sự tư hữu hóa đó là Công ty điện Pendolinos và Công ty xăng dầu Voyagers của Virgin. Các chuyên gia đường sắt, những người dự đoán vào năm 1997 rằng việc nâng cấp đường sắt sẽ dễ dàng hơn việc nâng cấp tàu, chỉ biết cúi đầu im lặng.
Trong khi đó, ở Australia, hậu quả của ngày 11/9 vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến ngành hàng không. Tiếp theo sự sụp đổ của Ansett, Virgin Blue đột nhiên trở thành hãng hàng không lớn thứ hai của Australia. Chủ tịch của hãng này là Brett Godfrey đã xây dựng công ty trong vòng cả năm trời nhưng đang điều hành một hãng hàng không hứa hẹn sẽ mang lại nhiều lợi nhuận hơn hãng EasyJet và có nhiều cơ hội hơn nếu ông ấy có thể xây dựng được nguồn tài chính. Giám đốc hợp tác tài chính của chúng tôi là Patrick McCall đang trên đường bay đến Australia trong vòng ba ngày sau cuộc tấn công Tòa tháp đôi xảy ra. Một tháng sau, Virgin Blue thông báo một cuộc hẹn với Goldman Sachs để chuẩn bị cho việc khai trương vào năm 2003 với ước tính giá trị là khoảng 1 tỷ đô-la Úc.
Mọi việc sẽ không xảy ra theo chiều hướng này khi công ty mẹ Ansett là Air New Zealand (ANZ) đề nghị mua Virgin Blue với giá 250 triệu đô-la một thời gian ngắn trước ngày diễn ra vụ khủng bố 11/9. Bạn bè của chúng tôi ở hãng Singapore Airline có 20% cổ

phiếu ở ANZ, và Chủ tịch Hội đồng Quản trị là Tiến sỹ Cheong (CK) đã gọi cho tôi và đề xuất. Ông nói: “Richard, tôi nghĩ anh nên chấp nhận lời đề xuất này. Đây là một sự định giá rất hào phóng và nếu anh không chấp nhận, chúng tôi sẽ đổ tiền cho Ansett, và họ sẽ loại trừ Virgin Blue trong vòng sáu tháng”. Ông ấy đang lừa tôi sao?
Đó là một quyết định khó khăn. Bản năng mách bảo tôi rằng công ty này đáng giá nhiều hơn thế, và đó không phải là một đề xuất hào phóng. Tuy nhiên, có một điều gì đó trong sự lời khẳng định kinh khủng của CK trên điện thoại đường dài làm tôi thấy do dự. Tôi quyết định mình phải ranh ma một chút và tôi yêu cầu một cuộc họp báo. Tôi muốn các đối thủ cạnh tranh hiểu rằng cộng đồng cần một cuộc cạnh tranh lành mạnh như thế nào. Tôi thông báo với bộ mặt rầu rĩ nhưng nghiêm túc: “Hôm nay là một ngày buồn, nhưng tôi đã quyết định bán. Điều này có nghĩa là giá vé máy bay rẻ của Australia sẽ chỉ còn là quá khứ
– các công ty khác sẽ không muốn tiếp tục những gì chúng tôi đã cố gắng làm. Dĩ nhiên, điều đó có nghĩa là rất nhiều nhân viên của các bạn sẽ trở thành nhân viên của Ansett và nhiều người sẽ bị mất việc. Nhưng dù thế nào đi nữa, tôi cũng đã làm tốt, tôi xin rút lui và quay trở lại Anh với khoản lợi nhuận 250 triệu đô-la.” Sự im lặng chết người bao trùm, và căn phòng chật người dường như rơi vào một cú sốc nặng. Một nhà báo từ Press Association – Hiệp hội báo chí vội vã ghi chép. Và sau đó tôi nhận ra một số nhân viên đang ở trong phòng mặc dù họ không định tham dự cuộc họp báo. Tôi thấy họ đang khóc. “Tôi chỉ đùa thôi” – Tôi nhanh chóng nói thêm, và công khai xé toạc tờ séc 250 triệu đô-la.
Năm ngày sau, Ansett phá sản và Brett nén lòng mình trên điện thoại khi ông ấy nhiệt tình vạch ra kế hoạch mở rộng công ty của mình để biến nó trở thành hãng hàng không lớn thứ hai tại Australia, và điều đó đã thành sự thật. Cuộc điện thoại đó khiến tôi nhận ra rằng nhóm của Brett đã thực sự xây dựng một công ty Virgin: công ty đã cách mạng hóa thị trường du lịch hàng không của Australia; công ty đã xây dựng tiếng tăm chất lượng cho mình; và tất cả những điều này đã được thực hiện từ một công ty quy mô nhỏ, khởi đầu bằng vốn rủi ro chỉ với 10 triệu đô-la Australia.
Tháng 12/2003, số vốn khởi đầu 10 triệu đô-la này đã nắm giữ 30% thị trường và trở thành thế hệ đầu tiên của các công ty khởi đầu sự nghiệp. Đó là một thành tựu rất ấn tượng trong tình thế hỗn loạn của thị trường hàng không và cuộc khủng bố ở Bali vào năm ngoái, điều mà làm chính phủ Australia lo lắng rằng mình sẽ bị lôi kéo vào các vấn đề rắc rối của toàn thế giới. Lúc đưa công ty lên thị trường chứng khoán Australia, chúng tôi có một đối tác mới ở Virgin Blue là Chris Corrigan và cùng với sự đầu tư của anh, chúng tôi đã kiếm được 780 triệu đô-la trong vòng ba năm. Sau khi khởi nghiệp, Virgin nắm được 25% cổ phiếu và công ty tiếp tục phát triển trong 18 tháng tiếp theo cho đến khi Qantas thức tỉnh về việc thị trường nội địa của họ đã bị phá hủy và giống như tất cả các nhà độc quyền, họ bắt đầu một mô hình giống Virgin Blue với chất lượng thấp vào mùa xuân năm 2004 với tên JetStar. Tháng 1/2005, Virgin Blue bị kìm lại trong cuộc chiến giá cả. Dù vậy, Virgin Blue vẫn là hãng hàng không có lợi nhuận lớn nhất trên thế giới. Thật vậy, một trong những thành tựu nổi bật nhất của hai năm 2004-2005 đó là Virgin Blue và Virgin Atlantic Challenger đều giữ được mức lợi nhuận trong khi các hãng hàng không khác của Mỹ đều rơi vào phá sản như đã nêu ở chương 11.

Thậm chí các công ty kinh doanh trên mạng mới mở được bắt đầu vào năm 1998 dường như ngày càng mạnh hơn sau ngày 11/9, phần lớn là do chúng dựa vào các nhãn hiệu có thực và bán các sản phẩm thực. Virgin Cars bán được 6.000 chiếc xe hơi vào mùa đông năm đó và cho dù tình thế khó khăn sau cuộc tấn công tại New York, doanh số bán xe hơi được cải thiện cho đến tận Giáng sinh. Và đối với thetrainline.net cũng vậy. Một lần nữa, doanh số bán hàng tăng khi các nhà điều hành quyết định một chuyến tàu từ Manchester hay Newcastle sẽ tốt hơn đi máy bay. Vào đầu năm 2002, các công ty này và một số công ty thương mại điện tử khác của chúng tôi có một lượng tiền mặt lớn. Chỉ có một trường hợp ngoại lệ là công ty Virgin Wines, mặc dù có 100.000 khách hàng nhưng công ty không thể đạt được lãi suất cần thiết trong một thị trường cạnh tranh gay gắt; nhưng chúng tôi rất tự tin rằng công ty sẽ vượt qua hoàn cảnh này sớm.
Virgin Wines là một ví dụ tốt cho phương châm quản lý của chúng tôi về việc cho mọi người cơ hội để trở thành một nhà doanh nghiệp. Vào cuối năm 1999, Rowan Gormley của Virgin Money đã bắt đầu cảm thấy rằng công ty dịch vụ tài chính của chúng tôi đang trưởng thành và cần phải có một mô hình quản lý khác. Chủ nghĩa tư bản rủi ro trước đã bị các con rệp doanh nghiệp cắn nát và giờ chỉ đơn giản muốn khởi đầu lại – một nhà bán lẻ rượu trên mạng. Tôi thông cảm với anh ấy và thay vì e ngại bước chân vào một lĩnh vực mới, chúng tôi quyết định ủng hộ anh ấy và coi đó như là một nguyên tắc. Virgin Wines được thành lập với tư cách là một công ty liên doanh giữa Virgin và Rowan.
Tôi có thể tiếp tục, nhưng hy vọng là kế hoạch sẽ được thực hiện. Bằng cách đầu tư và các công ty riêng lẻ với đối tác “hàng rào kín” như một người trong ngân hàng luôn nhắc nhở tôi, chúng tôi có thể chống lại được sức ép quản lý của ngày 11/9, mở rộng rủi ro và đưa ra nhiều quyết định tốt có các dự định và hy vọng của chúng tôi. Kết hợp những điều này với mô hình tài sản riêng vốn liên doanh tạo ra một công ty riêng lẻ với công việc kinh doanh riêng, các cổ đông và nguồn tài chính, bạn có Virgin tồn tại từ năm 2001 và công ty đó vẫn tiếp tục tồn tại cho đến tận bây giờ.
Với sự sụp đổ của Enron, thật thú vị khi nhìn vào cách thức mọi người vẫn muốn gây dựng một công ty lớn; nhưng khi mắc một sai lầm nghiêm trọng thì tất cả sẽ thất bại. Điều mà chúng tôi đang cố gắng tại Virgin không phải là muốn có một công ty lớn trong một lĩnh vực dưới một khẩu hiệu mà là 200 hoặc thậm chí 300 công ty khác nhau. Mỗi công ty có thể tự đứng trên đôi chân của mình, mặc dù chúng tôi có một nhãn hiệu để kết nối các công ty lại với nhau, nếu chúng tôi có một thảm họa khác xảy ra như thảm họa hồi ngày 11/9, một thảm họa đã làm tổn thương ngành hàng không, thì thảm họa đó sẽ không khiến tất cả các công ty cùng sụp đổ. Do đó, chúng tôi cố gắng tránh xa mọi sự nguy hiểm mà một ngày nào đó chúng tôi thức dậy với một điều gì đó sai lầm đang xảy ra đủ khiến cho tất cả các công ty đều sụp đổ.
Khi điều đó xảy ra, chúng tôi không bao giờ để một công ty ra đi: chúng tôi luôn thanh toán nợ cho công ty đó; chúng tôi luôn luôn cố gắng giữ gìn danh tiếng của mình như là một tổ chức luôn thực hiện bổn phận của mình. Nhưng trong trường hợp thảm họa cực kỳ nghiêm trọng, chúng tôi sẽ để một công ty ra đi; chúng tôi có thể bỏ công ty và nhờ đó,

toàn bộ các công ty khác sẽ được an toàn. Rõ ràng là danh tiếng của chúng tôi sẽ bị ảnh hưởng, và chúng tôi không hề muốn điều đó xảy ra, nhưng ít nhất với cách làm đó chúng tôi có thể tránh được một thảm họa và tránh cho 40 nghìn người bị thất nghiệp.
Tính đa dạng này của các công ty Virgin đã được chứng minh bằng cuộc kiểm tra về thời gian và tình hình tài chính. Với mỗi nhóm quản lý tập trung vào công ty và mục tiêu kinh doanh của riêng mình, chúng tôi có thể đạt được bất cứ điều gì, miễn là điều đó là phù hợp với nhãn hiệu. Tôi đã học được rất nhiều trong thời điểm cuối những năm 1990 và tôi đã nhận ra rằng gắn chặt tên tuổi chúng tôi và các sản phẩm không phải là một cách hay để tạo ra giá trị. Virgin Vodka có thể bán được trên máy bay và tại các sân bay, nhưng chúng tôi có các nhà máy phân bổ đi khắp thế giới như UDV hay Scittish Courage để hỗ trợ. Tuy nhiên, việc tìm ra các nhà quản lý doanh nghiệp như Frank Reed và Matthew Bucknall ở Virgin Ative, và đưa cho họ nguồn vốn thì không có gì là không thể làm được.
Có một điềm xấu khi Virgin Active mở câu lạc bộ đầu tiên ở Prestob, Lancashire vào tháng 8/1999. Một trận hỏa hoạn lan qua câu lạc bộ, gây thiệt hại khoảng 10.000 bảng và Frank trong cơn quẫn trí đã gọi điện cho tôi thông báo tin xấu này. Tuy nhiên, tin xấu có thể biến thành tin tốt. Khi anh ấy nói nó sẽ cho họ một cơ hội để thực hiện một hoặc hai việc khác và không phải đào tạo nhân viên, tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn. Tôi bắt đầu biết cách tại sao Frank lại có tiếng tăm trong ngành công nghiệp giải trí đến vậy.
Cùng lúc đó, Frank giúp tôi thực hiện lời cam kết đầu tư vào Nam Phi sau nhiều năm. Một trong những tổn thất của sự đi xuống của thị trường chứng khoán sau vụ tấn công Tòa tháp đôi là một công ty Nam Phi được định giá đã xảy ra đối với chuỗi câu lạc bộ sức khỏe lớn nhất quốc gia. Tôi đang tắm khi Nelson Mandela gọi đến, và ông giải thích rằng đây là một cơ hội để có 18 câu lạc bộ sức khỏe qua sự sụp đổ của một hệ thống quyền hành đen và hàng nghìn người bị thất nghiệp. Anh hỏi liệu chúng tôi có nên cứu các câu lạc bộ đó và cứu công ăn việc làm của những con người đó hay không. Chúng tôi có thể, chúng tôi đã làm điều đó để cuối năm 2001, Virgin Active phát triển nhanh và trở thành một trong những nhà điều hành câu lạc bộ sức khỏe hàng đầu thế giới.
Vào năm tiếp sau đó, Virgin Active trở thành một trong những câu chuyện thành công của đế chế Virgin. Thậm chí, ngay trong nội bộ cũng rất ít người biết công ty này đang làm ăn tốt như thế nào. Chúng tôi rủ các đối tác có vốn đầu tư rủi ro tham gia vào công việc kinh doanh và vào đầu năm 2005, chúng tôi đạt lợi nhuận 34 triệu bảng một năm.
Phương pháp mở rộng thông qua vốn rủi ro có nhãn hiệu có thể không phù hợp với mọi người nhưng thật là phấn khởi khi thấy một doanh nghiệp đang làm theo một mô hình có phần tương tự như thế. EasyJet đã rất thành công và hiện giờ công ty này trở thành một công ty định giá thị trường chứng khoán. Nhà sáng lập của công ty là Stelious Haij- Ioannou đang phát triển công ty sử dụng cùng một nhãn hiệu như EasyCar thông qua công ty EasyGroup kinh doanh xe tư nhân bằng vốn rủi ro.
Sau hậu quả của cuộc tấn công ngày 11/9, Virgin Atlantic Challenger đã tái cơ cấu hoàn toàn hệ thống điều hành của mình. Trong khi phản ứng chính của BA là tự bao bọc mình

trong nước Anh và theo đuổi Chính phủ để tìm kiếm sự ủng hộ đối với nỗ lực khác của công ty nhằm tạo ra một nhà độc quyền ở phía bên kia bờ Đại Tây Dương, cùng với hãng hàng không của Mỹ là American Airlines. Thay vì cố gắng ngăn cản hơn 60% chuyến bay hàng không giữa Anh, Mỹ và ở Heathrow rơi vào tay của một công ty với cơ cấu nguyên khối, thì công ty này lại nghĩ rằng Bộ Giao thông Anh Quốc sẽ ra tay giúp đỡ.
Vào một ngày đẹp trời tháng 11 tại Washington, trong khi tôi đang nói về thỏa thuận của chúng tôi với Senate, thì Bộ giao thông đến nhà tôi bằng thái độ đạo đức giả. Đại sứ quán Anh thông báo với báo chí về việc ủng hộ sự sáp nhập, và đơn vị tham gia thỏa thuận “Open Skies” (những vùng trời rộng mở) – gây kinh ngạc việc suy xét chỉ những người hưởng lợi mới có thể trở thành hai hãng hàng không tạo ra thế độc quyền. Với thái độ tự cao tự đại, nhà ngoại giao của chúng tôi cố gắng nắm bắt thái độ của những người này tại Captial Hill qua từng lời họ nói ra: “Hai nước đồng minh hợp lại nên đạt được một thỏa thuận mang lại lợi ích cho cả hai bên”. Nếu ai đó đã từng nhắc với tôi về “lợi ích cho cả hai bên” mà nỗ lực tạo ra độc quyền hàng không Bắc Atlactic có được cho cả hai bên đồng minh đã bị khóa trong cuộc xung đột với Taliban và Osama Bin Laden, thì tôi sẽ cảm thấy rất hạnh phúc và tặng họ một vé thượng hạng miễn phí cả đời.
Chuyện này chưa kết thúc. Trong nỗ lực bảo vệ thỏa thuận, BA đưa ra lời khẳng định lố bịch trên tờ Sunday Telegraph rằng không hề thiếu chỗ tại Heathrow; và theo lời Sid Vicious nói thì là “Vớ vẩn”! Virgin phản ứng lại bằng cách đem 2 triệu bảng làm từ thiện cho mỗi vị trí mà Ngài Marshal cố gắng mua cho chúng tôi. Một cách tự nhiên, ông ta không thể tiếp tục thử thách, và ông ấy chắc hẳn đã lầm bầm khi Bộ Tư pháp của Mỹ phê bình gay gắt thỏa thuận như chống cạnh tranh và khẳng định cuộc điều tra đã đưa ra kết luận rằng việc thiếu chỗ tại sân bay là lý do chính khiến thỏa thuận không được triển khai như đề xuất.
Cho đến cuối tháng 1/2002, cuộc chơi của BA và hãng hàng không American Airlnines cuối cùng mới bắt đầu. Bộ Giao thông Hoa Kỳ tuyên bố rằng họ sẽ để cho hai nhà độc quyền liên kết với nhau nếu BA nhường chỗ cho các hãng vận tải của Mỹ. Vấn đề ở đây là giá cả: Các nhà điều phối của Mỹ nhận ra rằng sân bay Heathrow đã quá đông và họ tạo cho các hãng hàng không rất nhiều cơ hội như thỏa thuận. Đối với BA, dù vậy thì giá vẫn quá cao; trong tuần cuối cùng của tháng Một, họ bỏ kế hoạch liên kết và tập trung trở lại vấn đề “Open Skies”.
Từ khi bắt đầu nỗ lực liên kết của họ vào năm 1996, BA đã tốn hàng nghìn giờ công lao động, tương ứng với 10 triệu bảng để theo đuổi một kế hoạch không có hy vọng mà phù hợp với ngành hàng không những năm 1970 hơn là hàng không cạnh tranh và giá rẻ. Rod Eddington khôn khéo chấp nhận khó khăn, thay vì cố gắng tạo ra một sự độc quyền để bước qua khó khăn, ông đã thông báo dự án “Quy mô và hình dáng tương lai” để tái cơ cấu BA.
Một trong những điều tôi học được trong những năm kinh doanh vừa qua là một khi bạn có một sản phẩm tuyệt vời thì điều quan trọng là bạn phải thận trọng bảo vệ tên tuổi

của nó. Đó không chỉ là một câu hỏi để gia nhập vào thị trường. Kết quả là hàng ngày tôi nhận được hàng mớ báo được cắt ra, tất cả các bài báo đó đều đề cập đến Virgin. Những bài báo này và thư của nhân viên là những thứ đầu tiên tôi đọc vào buổi sáng. Khi tôi bắt đầu hãng hàng không, tôi nhận ra rằng mình phải sử dụng bản thân để nâng cao hình ảnh của Virgin Atlantic Challenger và xây dựng giá trị của thương hiệu. Hầu hết các công ty đều không thừa nhận báo chí và có một phòng báo chí nhỏ xíu để giấu chúng khỏi tầm mắt.
Nếu một câu chuyện không đúng sự thật xuất hiện trên báo và nó xuất hiện trên hơn một tờ báo thì câu chuyện đó trở thành sự thật. Do đó, mỗi khi sản phẩm của bạn được nhắc đến, một câu chuyện tương tự sẽ được nhắc lại.
Tiếng tăm của tôi đã bị đe dọa hai lần, lần đầu tiên là do British Airways như tôi đã kể, và lần thứ hai là do Guy Snowden và Công ty GTECH của ông ta, động lực là sự hình thành Camelot, công ty đã giành chiến thắng và có được nhượng quyền thương mại để điều hành British National Lottery. Đối với cả hai công ty thì tôi đều là yếu tố cản trở công việc của họ, làm mất của họ hàng triệu bảng.
Vụ của GTECH là một vụ mang yếu tố đặc biệt quyết định về danh tiếng. Tôi gặp Guy Snowden vào năm 1993 khi Chính phủ Anh đồng ý tiếp tục duy trì National Lottery. Nhiều liên hiệp thương mại bắt đầu hình thành, nhưng tôi cảm thấy rằng Lottery nên được điều hành bằng một công ty mà sẽ tặng toàn bộ số tiền lãi cho quỹ từ thiện. Điều này có thể làm được vì nó sẽ trở thành nhà độc quyền mà không gặp bất cứ rủi ro nào cả. Tôi đã hỏi John Jackson, người mà tôi cùng làm việc tại Tổ chức Chăm sóc sức khỏe khi anh ấy là Giám đốc điều hành của hãng Body Shop, và cũng là người cùng tôi khai trương hãng bao cao su Mates để cùng thu hút cuộc đấu giá từ thiện. GTECH là một nhà cung cấp thiết bị xổ số hàng đầu, nên chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi nên gặp nhau và xem xét xem liệu họ có muốn cung cấp thiết bị cho chúng tôi trong trường hợp liên hiệp của họ thua hợp đồng không.
John Jackson và tôi gặp Guy Snowden vào bữa trưa ngày 24/9. Cuộc trò chuyện của chúng tôi đã trở thành câu chuyện về pháp luật. Sau khi chúng tôi rơi vào thế bí, Guy Snowden không muốn định giá cung cấp trang thiết bị cho chúng tôi và tôi không muốn tham gia vào liên hiệp của ông ấy nữa, chúng tôi dừng lại. Snowden nói với chúng tôi rằng nếu chúng tôi tiếp tục đấu thầu thì liên hiệp GTECH sẽ mất hàng nghìn bảng, do họ đã giảm phần trăm mà họ dự định tính phí từ 15% doanh thu được nêu trong hướng dẫn của Chính phủ xuống còn 13% và có thể còn thấp hơn. Giả sử doanh số bán hàng hàng năm của vé xổ số Lottery là 4 tỷ bảng (họ đã kiếm được từng đó), mỗi phần trăm giảm trong phần chia cho các nhà điều hành trị giá 40 triệu bảng một năm. Như vậy, sẽ có một lượng tiền lớn bị mất đi.
Chúng tôi đang ngồi trong một căn nhà kính trong vườn tại số 11 Holland Park, và tôi nhận ra rằng Snowden bắt đầu toát mồ hôi. Ông ấy chuyển chỗ ngồi và nhìn tôi;
“Tôi không biết phải nói như thế nào, Richard.” Tôi nhìn sang, không biết ông ấy đang định nói gì;

“Luôn có một điểm cốt yếu trong câu chuyện. Tôi sẽ đi thẳng vào vấn đề. Chúng tôi có thể giúp anh như thế nào đây, Richard?”
Tôi không muốn nói. Snowden nói rõ ý định của mình.
“Ý tôi là, tôi có thể giúp anh như thế nào, về mặt cá nhân?” Đầu óc tôi quay quanh câu hỏi: Tôi đang được hối lộ?
“Ý anh là gì vậy?” – Tôi hỏi, giọng đầy ngạc nhiên và tức giận, và cố gắng cho ông ta một cơ hội để dừng lại. Nhưng ông ta không dừng lại.
“Mỗi người đều cần một thứ gì đó trong cuộc sống” – Snowden nói.
“Cám ơn anh” – Tôi trả lời. “Tôi khá là thành công. Tôi chỉ cần một bữa sáng, một bữa trưa và một bữa tối mỗi ngày. Cách duy nhất mà anh có thể giúp đỡ là cung cấp dịch vụ kỹ thuật cho cuộc đấu thầu của chúng tôi.”
Nói đến đó, tôi đứng dậy và rời khỏi căn phòng. Tôi không muốn liên quan đến người đàn ông này nữa. Trong khi John và tôi cố gắng thúc đẩy cuộc đấu thầu cho National Lottery và định sẽ đem hàng triệu bảng đi làm từ thiện thì người đàn ông này định hối lộ để thuyết phục tôi đứng bên ngoài và bỏ qua cho cuộc đấu thầu cũng như chi ít tiền hơn cho công tác từ thiện, đồng thời làm giàu cho ông ta và công ty của ông ta.
Tôi lên cầu thang và đi vào nhà vệ sinh. Trong nhà vệ sinh, tôi ghi vội vài từ ông ta đã nói trên một mảnh giấy. Tôi chưa bao giờ nhận được một lời đề nghị hối lộ như vậy. Sau đó, tôi quay trở lại, John và tôi chỉ đường cho Snowden ra cửa.
Tôi hỏi John: “Nếu tôi không nhầm thì đó là một lời đề nghị hối lộ đúng không?” “Chắc chắn rồi” – John nói.
Sau đó, John nói với tôi rằng anh ấy gần như ngã khỏi ghế khi Guy Snowden nói ra những lời đó. Để rút ngắn câu chuyện, trong phiên tòa, Hội đồng xét xử đồng lòng đứng về phía tôi chống lại Guy Snowden và GTECH. Trong lời kết luận của mình, George Carman QC nói với quan tòa rằng, trên bất cứ thành công thương mại mà một người có thể đạt được thì danh tiếng của anh ta mới là điều quan trọng nhất. Guy Snowden đã lựa chọn nhầm người, nói những điều sai lầm, tại nhầm nơi và nhầm thời điểm.”
Năm 1999, khi để National Lottery được phép tổ chức đấu thầu, tôi quyết định sẽ tham gia một lần nữa với một liên hiệp phi lợi nhuận để giành được Lottery. Như trước kia, hầu hết các cố vấn thân cận của Virgin đều cố gắng thuyết phục tôi không nên tham gia đấu thầu vì cuộc chiến với Camelot có thể gây rủi ro cho thương hiệu, rất ít người trong số họ tin rằng tôi có thể chiến thắng. Tuy nhiên, tôi cảm thấy rất thích thú với nó và tôi đã quyết định tiếp tục, bắt đầu bằng việc nhấc điện thoại lên gọi cho người bạn cũ của tôi là Simon

Burridge. Anh đã dành nhiều gian ở công ty quảng cáo J Walter Thompson với chức danh Giám đốc điều hành, nhưng anh vẫn chưa hết lòng nhiệt tình đối với quy tắc ở công ty People’s Lottery hay cuộc chiến không thể tránh khỏi với Camelot, chính điều đó đã khiến anh đưa ra quyết định. Simon không phải là người thích vòng vo: “Tôi đã theo dõi rất sát sao những việc này ở Camelot, Richard ạ, và tất cả những dự đoán của chúng ta về cuộc đấu giá năm 1993 đã trở thành hiện thực. Doanh số bán hàng đang giảm, công nghệ GTECH giờ là thứ bỏ đi, cuộc chơi của họ không hề hấp dẫn và với một nhà cung cấp tốt thì tôi nghĩ chúng ta có thể làm được.”
Anh ấy ngay lập tức bắt tay vào việc và kêu gọi mọi người từ Anne Leach và John Jackson cho đến Colin Howes ở Harbottle & Lewis. Một trường hợp ngoại lệ trong nhóm cũ trước đây là Will Whitehorn, người nghĩ nên có một ranh giới rõ ràng giữa Virgin và điều sẽ được biết đến tại thời điểm này như People’s Lottery. Chúng tôi đang đầu tư vào một loại hình kinh doanh hoàn toàn mới, ngoài hãng hàng không, mà có thể không nhìn thấy lợi nhuận trong vòng hai năm đầu tiên. Will nói với tôi rằng chúng tôi cần tấn công vào nhược điểm của đối thủ và cố gắng phá hoại danh tiếng kinh doanh của họ. Anh muốn tập trung vào việc chiến đấu với mục tiêu lớn hơn – làm PR cho Tập đoàn và cho nhãn hiệu
– đề nghị thay thế việc sử dụng công ty PR bên ngoài cho People’s Lottery.
Và chúng tôi thành lập một nhóm các nhà cung cấp, các văn phòng và nhân sự mới, xây dựng một nhóm cốt yếu từ cuộc đấu thầu năm 1993. Cuối cùng, chúng tôi hoàn thành với hơn 20 nhà cung cấp, từ Enererhies và Microsoft cho đến J Walter Thompson, JP Morgan và kẻ thù trước đây của chúng tôi – AWI. Về phần Camelot, họ lôi kéo được Post Office làm cổ đông thay thế cho GTECH, mặc dù công ty này vẫn định tham gia đấu thầu với thiết bị riêng của họ. Camelot đã cố gắng cải thiện trong suốt 6 năm: họ lôi kéo Diane Thompson làm Giám đốc điều hành. Diane là một ví dụ tốt về một thế hệ nữ giới mới giữ chức Giám đốc điều hành, người bắt đầu gây ảnh hưởng lên Ban Giám đốc tẻ nhạt của nước Anh trong những năm 1990. Tôi thích thú với ý tưởng sẽ chiến đấu với bà ấy, nhưng khi nghe bài phát biểu của bà trên đài BBC Radio 4’s và trong chương trình Today, tôi biết bà không phải là loại người dễ thuyết phục.
Lúc đó, tôi vừa trở về từ chuyến bay vòng quanh thế giới bị thất bại vào đợt Giáng sinh năm 1998, và tôi không đánh giá cao một điểm khác biệt quan trọng giữa Camelot của năm 1993 và Camelot của năm 1999. Thắng cuộc đấu thầu để giành quyền điều hành Lottery trong 6 năm, họ đã chuẩn bị mọi thứ để giữ nó lại. Quan trọng hơn, vì hầu hết mọi người đều nghĩ rằng họ có thể lại thắng thầu một lần nữa, cuối cùng chúng tôi lại trở thành nhà thầu cạnh tranh duy nhất, và điều đó có nghĩa là họ (và bạn bè của họ) sẽ tập trung toàn bộ sức lực chống lại chúng tôi – và cá nhân tôi.
Cuộc chơi kết thúc vào mùa hè năm 2000, trong khi tôi đang đi nghỉ cùng gia đình ở Necker. Tôi nhận được một tờ fax từ ông chủ của Ủy ban xổ số Lottery Commission – Dame Helena Shovelton – thông báo rằng chúng tôi không chiến thắng tuyệt đối, mà chỉ chiến thắng một phần nào đó. Chúng tôi được cho một khoảng thời gian để thương lượng. Nếu chúng tôi có thể đảm bảo đủ tiền để chi trả cho mọi tình huống xấu và giải quyết một vài

điểm vướng mắc thì Lottery sẽ là của chúng tôi.
Giá mà mọi chuyện chỉ đơn giản như vậy. Simon và John nhìn thấy dấu hiệu nguy hiểm trong quá trình đó và dự đoán rằng Camelot có thể rà soát về mặt pháp lý để chống lại quyết định này. Họ đã làm như vậy. Và không những thế, họ còn giành chiến thắng, và điều nguy hiểm là không có thời gian để giao Lottery cho chúng tôi. Cay đắng hơn, Dame Helena xin từ chức và Terry Burns lên thay thế, Terry Burns là cựu quan chức của Whitehall. Trong vài tuần kế tiếp, Burns đảo ngược các quyết định của Dame Helena về Lottery, và đi đến một kết luận mà tôi cho rằng thật lố bịch đó là tuyên bố phần thắng thuộc về Camelot.
Vào những tuần cuối cùng để bước sang năm 2001, mọi việc trở nên không thể tin nổi: chúng bắt đầu rời bỏ Camelot. Khi ngày 11/9 làm rung chuyển thế giới, doanh số bán hàng giảm 20% một năm. Tôi không hài lòng về điều đó, bởi lẽ đó dĩ nhiên không phải là vì Camelot mà vì nhiều nguyên nhân khác, các lĩnh vực như thể thao, nghệ thuật, từ thiện và các tổ chức khác cũng kiếm được ít tiền hơn.
Giấy phép đồng ý cho Camelot điều hành Britain’s National Lottery có hiệu lực vào tháng 1/2002, khi số lượng người tham gia đang giảm dần. Diane Thompson – Giám đốc điều hành giải thích rằng chương trình quá tẻ nhạt – thật đáng buồn khi một người có một công việc kiếm ra hàng tỷ một tuần lại không thể làm nó thú vị hơn.
Camelot đã cố gắng xoay sở để có được giấy phép bằng cách huy động 15 tỷ bảng cho mục đích tốt nhưng Chính phủ đã không yêu cầu họ phải đảm bảo việc này. Trong tuần giành thắng lợi, Camelot đã tìm lý do giải thích tại sao họ không thể có được 15 tỷ bảng: “Chúng tôi đã bị quá trình đấu thầu làm rối trí”… Nhưng đã là quá muộn. Họ đã có giấy phép. Đó là kết quả gây sửng sốt và một điều mà tôi muốn Chính phủ làm đó là đưa họ ra bêu riếu: Họ đã cam kết tại buổi bầu cử rằng Lottery sẽ dành toàn bộ số tiền lợi nhuận thu được cho các mục đích từ thiện – và họ đã không giữ lời.
Việc cơ cấu lại Virgin Atlantic Challenger sau thảm họa ngày 11/9 thực sự bắt đầu có hiệu quả trong những năm tiếp đó và ban quản lý tự tin mọi thứ sẽ được củng cố bằng năng lực của hãng để có thể đứng vững sau cú sốc – ảnh hưởng của chiến tranh ở Afghanistan: khó khăn trong những năm dịch SARS bùng nổ ở châu Á và cuộc chiến tranh thứ hai nổ ra ở Gulf. Virgin Atlantic Challenger thực sự phát triển trong suốt thời kỳ những sự kiện này diễn ra và cố gắng kinh doanh có lợi nhuận sau tháng 4/2002, mặc dù đã mất gần 100 triệu bảng trong những tháng sau khi thảm họa Tòa tháp đôi xảy ra.
Chúng tôi cũng khai trương một loại vũ khí bí mật của mình được gọi là “cuộc chiến của những chiếc giường” với British Airways. Vào mùa hè năm 2003, Virgin Atlantic Challenger tuyên bố khai trương dịch vụ phòng thượng hạng – Upper Class Suite, đó là dịch vụ hạng thương gia đầu tiên và duy nhất trên thế giới được trang bị giường nằm phẳng. Nó được cả thế giới biết đến, và vào mùa hè năm 2004, chúng tôi đã thâm nhập vào thị trường của đối thủ.

Dự án tạo ra những chiếc giường như vậy là đặc điểm riêng của Virgin. Chúng tôi đã dũng cảm tự mình thiết kế các sản phẩm và Joe Ferry – trưởng nhóm thiết kế của Virgin Atlantic Challenger, là người đảm nhiệm. Anh đã đạt được thành công kỳ diệu với tư cách là nhà sản xuất ghế hàng không, đó là loại ghế kết hợp với giường nằm thoải mái bằng cơ chế lật độc đáo. Sự mạo hiểm đã mang lại hiệu quả, và thiết kế của Joe đã chiến thắng sáu giải thiết kế trong ngành công nghiệp lớn nhất thế giới trong năm 2004 và đã khiến cho hàng nghìn khách hàng thường xuyên của British Airways chuyển sang sử dụng dịch vụ của Virgin Atlantic Challenger.
Khi Virgin Atlantic Challenger tiếp tục hồi phục, tôi cảm thấy rất lo lắng về cái gọi là “cuộc chiến chống khủng bố”. Đó là khát vọng của Đảng Bảo thủ hiện đại ở Hoa Kỳ nhằm can thiệp sâu hơn vào Trung Đông để “ổn định” khu vực này. Vào mùa thu năm 2002, rõ ràng là chính quyền Bush đã quyết định can thiệp vào chiến tranh ở Iraq mà không quan tâm đến ý kiến của thế giới. Vào đầu năm 2003, Mỹ đã thực hiện kế hoạch của mình cho dù Liên hợp quốc không ủng hộ quyết định này.
Tôi thấy mọi việc hết sức u ám và có một điềm báo trước về một cuộc xâm lược không công bằng sẽ xảy ra. Ngoài sự mất mát về con người trong các cuộc xung đột, tôi nghi ngờ về sự tồn tại của các vũ khí hủy diệt hàng loạt, và không thể hiểu được tại sao Chính phủ Mỹ lại cho rằng Iraq là một nước quá dễ dàng để “dân chủ hóa” trong khi rất nhiều nước khác trước đây đã thất bại. George Bush tiếp tục phát biểu trên truyền hình và tại các cuộc họp báo rằng: “Chiến tranh là một điều không tốt nhưng lại cần thiết” – còn với tôi, chiến tranh độc ác hơn nhiều so với cần thiết. Dù vậy, sau ngày 11/9, Will Whitehorn khuyên chúng tôi nên chống lại phe đối lập công chúng về chính quyền Bush về vấn đề Iraq vì đó là điều không thể tránh khỏi. Vào tháng 2/2003, tôi dự định thuyết phục Saddam Hussein từ chức trước khi chiến tranh nổ ra. Lòng nặng trĩu, tôi gọi cho Nelson Mandela và viết một lá thư đơn giản như sau:
Gửi Mandela!
Tôi luôn thấy vui khi được nói chuyện với ông. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ viết cho ông mấy dòng ngắn gọn về những vấn đề mà tôi muốn thảo luận.
Mỹ và Anh đã thực sự quyết định tham gia vào cuộc chiến. Những thương vong về con người là một điều không thể tránh khỏi.
Tôi tin rằng chỉ có một cách duy nhất để dừng cuộc chiến tranh Iraq và tôi tin rằng ông là người duy nhất trên thế giới làm được điều này.
Nếu Saddam Hussein bị thuyết phục để nghỉ hưu đến Libya (hoặc một nơi nào đó) và được miễn tội hoàn toàn, thì tôi không tin là Mỹ có thể bắt đầu cuộc chiến. Nếu ông ấy chịu hy sinh để nhân dân của ông không phải tiếp tục chịu đựng thảm họa thì ông ấy có thể củng cố danh tiếng của mình. Sự lựa chọn của cá nhân có thể là số mệnh của Noriega, Milosevic hoặc hơn thế.

Được biết ông có mối quan hệ thân thiết với Tổng thống Qaddafi và ông đang ở Iraq nên có lẽ ông là người duy nhất thu xếp được việc này.
Tôi tin rằng ông có thể thuyết phục Saddam Hussein từ chức. Bằng cách bay đi cùng ông tới Libya và ông ấy có thể ra đi ngẩng cao đầu. Đó có thể là điều tốt nhất mà ông ấy làm cho dân tộc của mình.
Nếu điều này có thể giúp ông thì tôi rất sẵn lòng gửi ông một chiếc máy bay chở ông đi và về (hy vọng là bay qua Libya).
Tôi sẽ thông báo với ông sau khi nói chuyện với Tổng thống Thabo Mbeki. Kính thư,
Richard.
Đó là một kế hoạch táo bạo có thể sẽ đạt hiệu quả. Nhưng đã quá muộn.

Nelson Mandela muốn tôi có được sự phê duyệt của Kofi Anna, Tổng thư ký Liên Hợp Quốc, và sự cho phép của Tổng thống Thabo Mbeki. Tôi viết thư cho Kofi Anna và tiếp đó là gọi điện cho ông. Ông nói rằng ông hoàn toàn ủng hộ. Ngày 17/3, chúng tôi bố trí hai phi công và một chiếc Lear Jet ở Johanesburg để đưa Mandela tới Baghdad. Chúng tôi đã cố gắng cứu thoát con tin khỏi Iraq một vài năm trước bằng cách cử Edward Health đi. Lần này là Nelson Mandela – người được kính trọng nhất thế giới – người đã mạnh mẽ lên tiếng phản đối cuộc xâm lược sắp tới của Mỹ. Nếu ai đó có thể thuyết phục Saddam thì chỉ có thể là ông ấy. Rất nhiều sinh mạng có thể được cứu sống và rất nhiều thương vong sẽ không xảy ra.
Thời gian buồn bã trôi qua và hai ngày sau sự kiện bất ngờ xảy đến với chúng tôi. Vào ngày 19/3/2003, Mỹ đánh bom Baghdad và tất cả mọi việc chỉ còn là dĩ vãng. Tôi chưa bao giờ cảm thấy tiếc nuối hơn thế.
Nhưng điều mà tôi nhận ra từ trải nghiệm này và từ những người bạn có tầm nhìn như Peter Gabriel đó là thế giới cần một nhóm người lão thành như Nelson Mandel, người có thể đứng ra thay mặt cộng đồng thế giới trong những trường hợp như thế này. Khoảng hai năm sau, tôi quyết định rằng cần phải kết nối các cá nhân lại với nhau, những người có thể phục vụ như những người “lão thành” của thế giới để truyền đi thông điệp đến mọi người trên hành tinh này.
Vào cuối năm 2003, Joan, Holly và tôi cùng một nhóm từ Virgin có một cơ hội tuyệt vời tham gia và giúp đỡ tổ chức buổi hòa nhạc 46664 của Madiba tại Nam Phi. Madiba rất hào phóng khi sử dụng số hiệu tù của mình 46664 như là một biểu tượng cho hy vọng trong cuộc chiến chống lại căn bệnh HIV/AIDS. Ngồi cạnh ông và người vợ tuyệt vời của ông lần đầu tiên tại Nam Phi là một trong những giây phút tuyệt vời nhất trong cuộc đời tôi.
Trước buổi hòa nhạc, không lâu sau khi cuộc chiến tranh kết thúc, tôi thấy tận mắt một

thế giới Iraq thu nhỏ khi chúng tôi lên chuyến bay đầu tiên tới Basra. Một cách thích hợp, phi công của chuyến bay đó là Mike Abunalla, một người Iraq ly hương, gia đình anh đã đi khỏi Iraq khoảng 22 năm trước. Nhiệm vụ của chúng tôi là phân phát 60 tấn thuốc cứu trợ cho các bệnh viện của Basra đã tàn phá trong cuộc càn quét về phía Bắc. Trong suốt chuyến bay, chúng tôi bị ám ảnh bởi sự tàn phá về cơ sở hạ tầng trên mặt đất và sự tàn ác cũng như trống trải hoàn toàn của đất nước Iraq.
Toàn bộ dự án là một sự hợp tác đáng chú ý giữa một người Iraq ly hương, Luay Shakarchy ở Midlands, Birmingham, Jackie McQuillan của chúng tôi và Air Marshal Brian Burridge.
Tinh thần hợp tác giữa quân đội Anh tại Barsa và một nhóm nhỏ đến từ Virgin Atlantic Challenger là điều rất ấn tượng; trong vài tuần, họ cố gắng mở cửa sân bay Basra cho chiếc 747 đem hàng viện trợ vào đất nước. Tôi dành rất nhiều thời gian nói chuyện với những người làm dịch vụ tại Basra và tôi có thể nói rằng rất nhiều người trong lực lượng của Anh cảm thấy điềm báo về tình thế đối với đối tác Mỹ tại phía Bắc của đất nước.
Rất nhiều người trong số chúng tôi đều cảm động về những gì chúng tôi nhìn thấy và trải qua trong suốt chuyến bay dân dụng đầu tiên tới Iraq từ năm 1990. Đặc biệt là Jackie, người đi cùng ba người Iraq ly hương và hiện giờ đều là bác sĩ ở Anh, đã đi xuống thành phố để thăm các bệnh nhân ở Bệnh viện đa khoa Basra. Điều cô nhìn thấy tận mắt không chỉ là nỗi đau và sự chịu đựng của người dân trong suốt cuộc chiến tranh mà cô còn thấy sự hy vọng và vẻ đẹp cho dù tình thế có khủng khiếp đến đâu đi chăng nữa. Tại bệnh viện, cô gặp một người phụ nữ khoảng 20 tuổi, người phải chịu đựng một vết thương khủng khiếp ở chân và dạ dày do mảnh bom gây ra. Mặc dù đau đớn, bà không thể rời mắt khỏi vẻ đẹp của đứa con nhỏ của mình, đứa trẻ được sinh ra trong tình trạng nguy kịch chỉ hai ngày trước.
Nhìn thấy những giọt nước mắt thông cảm của Jackie, người phụ nữ nói: “Xin đừng khóc vì tôi, Chúa đã ban cho tôi món quà vĩ đại nhất và trong mắt của nó chỉ có sự ngây thơ và tình yêu.” Đó là những từ cảm động nhất tôi nghe được trong ngày hôm đó.
Lầu năm góc nói rằng chi phí của cuộc chiến tại Iraq là xấp xỉ 75 tỷ đô-la mỗi năm trong vòng 10 năm. Chấp nhận giải Nobel hòa bình Niwano vào ngày 8/3/2003, Tiến sỹ Priscilla Elwworthy của nhóm nghiên cứu Oxford nói rằng: “Chúng tôi so sánh 75 tỷ đô-la này với chi phí xây dựng lực lượng an ninh quốc tế bằng một số cách.
1. Vào năm 2000, các nhà lãnh đạo thế giới ước tính rằng việc này chỉ mất khoảng 25 tỷ đến 35 tỷ đô-la mỗi năm để nâng cao chất lượng sức khỏe và an ninh xã hội tại châu Âu đạt tiêu chuẩn châu Âu.
2. Unesco ước tính rằng toàn bộ trẻ em trên thế giới có thể được giáo dục nếu chúng ta chi 7 tỷ đô-la mỗi năm trong vòng 10 năm.
3. Mọi người dân có thể tiếp cận được với nước sạch và vệ sinh chỉ với 9 tỷ đô-la mỗi năm.

4. Bệnh HIV và AIDS đang lấy đi 5.500 sinh mạng mỗi ngày trên toàn thế giới – hầu hết số người đó là người da đen – và 12 triệu trẻ em tại châu Phi biến thành trẻ mồ côi do căn bệnh này. Kofi Annan dã kêu gọi 10 tỷ đô-la mỗi năm để giải quyết dịch bệnh AIDS.
Vậy tất cả những mục tiêu trên đều có thể đạt được, tất cả chi phí này trên toàn thế giới đều ít hơn số tiền mà Mỹ đã chi tiêu cho quân đội trong cuộc chiến tranh tại Iraq.”
Tuy nhiên, bà kết thúc bài phát biểu của mình bằng việc trích dẫn lời của ngài Muller, Hiệu trưởng trường Đại học Hòa bình tại Costa Rica và Dalai Lama.
“Ngài Muller, trong bài phát biểu trước của năm nay, có nói rằng: Tôi rất vinh dự được sống trong thời khắc tuyệt diệu này của lịch sử. Tôi cảm thấy vô cùng xúc động về những gì đang diễn ra trên thế giới của chúng ta ngày hôm nay. Chưa bao giờ trong lịch sử của thế giới lại có một cuộc trò chuyện toàn cầu, công khai, và cởi mở về tính hợp pháp của chiến tranh như thế này. Hậu quả sẽ là gì? Chi phí là bao nhiêu? Lựa chọn hòa bình thay thế là gì? Chúng ta đang nghĩ đến việc thương lượng như thế nào? Mục đích của chúng ta khi tuyên bố chiến tranh là gì?
Hàng triệu người trên thế giới dường như đã tìm ra tiếng nói mới. Có thể một số ý kiến hay có thể được đưa ra từ quyết định xâm lược Iraq.
Và cuối cùng là những lời trích dẫn tuyệt vời của Đức Đà Lai Lạt Ma: ‘Nếu bạn ước được sống trong hòa bình, thì hãy đem hòa bình đến cho người khác. Nếu bạn ước được biết rằng bạn đang được an toàn thì hãy khiến cho người khác biết là họ đang an toàn. Nếu bạn ước bạn có cái hiểu toàn diện về mọi thứ thì hãy giúp người khác hiểu kỹ hơn. Nếu bạn ước bạn có thể hàn gắn nỗi buồn hay sự tức giận của mình thì hãy tìm cách hàn gắn nỗi buồn hay nỗi tức giận của người khác. Những người khác đang dõi theo bạn. Họ đang tìm kiếm bạn để bạn cho họ lời khuyên, sự giúp đỡ, lòng dũng cảm, sức mạnh, sự hiểu biết và sự đảm bảo.
Tất cả mọi người – họ đang tìm chúng ta để yêu thương.’”
Quay trở lại London vào mùa xuân năm 2004, Gordon McCallum, người trước đây là Giám đốc chiến lược tập đoàn cho Virgin Group, đang bận rộn chuẩn bị cho Virgin Moible gia nhập thị trường chứng khoán London với hy vọng được định giá 1 tỷ đô-la. Đó là một câu chuyện rất ấn tượng. Chỉ trong 4 năm, chúng tôi thành lập mạng lưới điện thoại di động thực sự đầu tiên trên thế giới và xây dựng một nền tảng gồm 4 triệu khách hàng, đó là những người hài lòng nhất trong nền kinh tế. Thú vị hơn, bằng cách nào đó chúng tôi đạt thành công lớn trong ngành điện thoại di động của Mỹ, nơi chúng tôi bắt đầu trong những ngày tăm tối sau ngày 11/9 tại Mỹ. Thậm chí vào năm 2004, hãng Virgin Mobile USA của Hoa Kỳ có thể có giá trị hơn cả tại Anh. Đây trở thành công ty phát triển nhanh nhất trong lịch sử liên hiệp với Mỹ, đạt được 1 tỷ đô-la và hoàn thành chỉ trong vòng 3 năm. Nóng lòng theo chân Mỹ, các đồng nghiệp khác là Robert Samuelson và Max Kelly, đã hăng hái sang Canada tuyển mộ một nhóm để lập một công ty di động khai trương vào năm 2005 và hợp tác với Bell Canada. Khoảng giữa năm 2004, rõ ràng là mô hình này đã thực sự có hiệu quả và chúng tôi có thể cung cấp dịch vụ tốt hơn cho khách hàng, thông qua tác dụng của nhãn hiệu. Thời gian trôi qua, ngày càng nhiều cơ hội bắt đầu xuất hiện ở nhiều nơi như châu

Phi và Trung Quốc.
Vào tháng Bảy năm đó, Virgin Mobile UK tham gia thị trường chứng khoán. Trong 5 năm kể từ khi công ty bắt đầu, công ty trở thành lực lượng chính trong ngành di động của Anh, thu hút hơn 4 triệu khách hàng và trở thành một trong những công ty làm ăn có lãi nhất trong ngành công nghiệp dựa vào mô hình: mạng ảo rẻ và đơn giản. Như thường lệ, thời gian chúng tôi hành động là hoàn hảo. Thị trường chứng khoán trở nên tồi tệ nhất từ ngày 11/9 và việc kinh doanh trở nên khó khăn ở cả hai đầu Đại Tây Dương. Để làm đau thêm vết thương, công ty duy nhất có thể trụ trên thị trường chứng khoán Anh lúc bấy giờ là nhà sản xuất dưa chua của Branston – bạn không khó để có thể đoán được khó khăn của chúng tôi đó là nên hay không nên đưa Virgin Mobile lên thị trường chứng khoán. Tôi đang đi nghỉ ở Necker khi đưa ra quyết định cuối cùng là chúng tôi tiếp tục với giá mỗi cổ phiếu giảm 2 đô-la. Tâm lý là một yếu tố rất quan trọng đối với chúng tôi, trong Virgin Group đã từng có tên trong thị trường chứng khoán ở Anh và chúng tôi luôn nói như vậy, nếu chúng tôi trở lại, thì đó sẽ là một công ty riêng lẻ tập trung vào công việc kinh doanh của mình. Tôi rất vui khi nói như vậy, vào mùa đông năm 2004, cổ phiếu của Virgin Mobile trở nên ngày càng mạnh hơn. Kết quả là chúng tôi có một khoản lãi lớn trong công việc kinh doanh di động tại Mỹ và đề niêm yết nó lên thị trường cổ phiếu, điều mà chúng tôi đã làm vào cuối năm 2007, với giá của mỗi cổ phiếu là 15 đô-la. Năm 2005 cũng là một năm mà chúng tôi đưa ý tưởng về điện thoại di động ra khắp thế giới tiếp nối sự thành công ở Anh, Australia và Mỹ. Lễ khai trương công ty di động mới đầu tiên là ở Canada vào mùa xuân, ở Nam Phi vào mùa đông và đạt được thỏa thuận khai trương tại Trung Quốc, Ấn Độ và một số phần của Châu Phi. Việc bán cổ phiếu thành công của Virgin Mobile không chỉ cho phép chúng tôi tham gia vào các dự án mạo hiểm hơn như du lịch vũ trụ mà còn cho chúng tôi cơ hội thử sức với một hoặc hai dự án thú vị mà Virgin không thể làm từ ngày 11/9. Global Flyer Virgin Atlactic của Steve Fossett là một trong những dự án như vậy. Vào đầu năm 2005, chúng tôi đồng ý hỗ trợ một dự án khảo cổ độc đáo nhằm khảo sát Alexandria cổ sử dụng trang thiết bị địa lý tân tiến nhất – đó là ra-đa địa lý. Rất nhiều các công trình lịch sử quan trọng như lăng mộ của Alexander Đại đế, Đại thư viện và Cung điện Hoàng gia Ptolemaic đã đừng nằm ẩn sâu chưa được khai quật ở đâu đó bên dưới thành phố Alexandria từ thời Roman khi một trận động đất tàn phá toàn khu vực. Tôi cảm thấy đây giống như thời xa xưa đối với tôi khi Martyn Gregory trình bày ý tưởng. Martyn Gregory là người bạn mà tôi cùng viết quyển sách của anh ấy về những mánh khóe bẩn thỉu của BA và các cuốn sách khác như Diana, những ngày cuối cùng về cái chết của Công nương Diana. Anh có một cuộc nghiên cứu lạ thường đằng sau niềm tin rằng có một nhóm nhà khảo cổ trẻ có thể giải mã những bí mật nằm dưới thành phố hiện đại bằng cách sử dụng ra- đa thâm nhập vào lòng đất. Mãi năm 2006, chúng tôi mới biết được anh ấy đúng hay sai và liệu chúng tôi là một phần của cuộc khám phá khảo cổ lớn nhất mọi thời đại này hay chỉ là một nhà bảo trợ bị lãng quên của một đội thám hiểm xấu số để tìm ra những kỳ quan của thế giới cổ đại.
Bất chấp thảm họa ngày 11/9, chúng tôi không lãng quên ngành công nghiệp hàng không nơi vẫn còn các cơ hội đang chờ đợi với các công việc kinh doanh hấp dẫn. Mùa hè năm 2004, Fred Reid, người đã từng điều hành Delta Airlines được tuyển mộ để đứng đầu

một trong những công việc quan trọng nhất của Virgin trong lịch sử 35 năm của công ty – cuộc tấn công toàn lực vào thị trường du lịch hàng không nội địa Mỹ đang bị phá sản. Vì chủ nghĩa bảo vệ nền công nghiệp trong nước của thị trường nội địa Mỹ, tôi đóng một vai trò khá nhỏ trong việc tạo ra hãng hàng không Virgin Airline, với phần lớn vốn và công tác quản lý đến từ các tổ chức và công ty của Mỹ. Do đó, điều này thật kỳ quái nhưng hoàn toàn thỏa mãn khi vào một buổi sáng tháng 5/2004, tôi thức giấc để đọc báo nói về việc hãng hàng không mới của mình chuẩn bị được đổi tên thành Virgin America. Đối với tôi, Virgin đã thành công. Chúng tôi có đủ tự tin để đầu tư vào thị trường hàng không khắc nghiệt nhất thế giới và sẵn sàng có thể kiểm soát số mệnh của công ty. Chính quy tắc đã khiến Mỹ trở thành một rào cản khó vào đối với chúng tôi trước kia và quy tắc mà BA đã cố gắng sử dụng để đặt nền độc quyền giờ đây không còn khiến chúng tôi thấy sợ nữa. Trong những năm qua, chúng tôi đã chứng kiến những âm mưu chống lại khách hàng và độc quyền của hãng vận tải lớn của Mỹ. Cuối cùng, tình thế đã thay đổi. Nhưng với một số người thì họ vẫn muốn giữ những rào cản này nhằm gây khó khăn cho những người mới tham gia vào thị trường không công bằng này. Vào tháng 7/2004, tôi nhận được một lá thư từ một người bạn đã tham gia hội nghị hàng không ACTC tại Washington. Tham gia hội nghị này gồm có các Chủ tịch Hội đồng Quản trị của năm hãng vận tải hàng đầu nước Mỹ. Trong suốt cuộc họp, một trong những người tham gia phát biểu: “Tất cả những gì chúng ta cần bây giờ là Branson và mọi thứ sẽ đâu vào đấy ngay ấy mà”. Câu này nghe hơi quen quen. Nhưng đó không phải là điều nịnh bợ.
Tuy nhiên, đây không phải là hãng hàng không mới nhưng đó là sự kiện hàng không độc đáo khác khiến tôi quay trở lại Mỹ vào giữa mùa hè năm đó. Vào một buổi sáng lạnh lẽo ngày 22/6/2004, tôi đã thực sự may mắn được chứng kiến một trong những cảnh tượng bất ngờ nhất mà tôi từng thấy khi con tàu vũ trụ do tư nhân đầu tư đầu tiên trên thế giới được phóng lên bầu trời ở thị trấn Mojave tại sa mạc California. Tàu vũ trụ SpaceShipOne thực sự là một sản phẩm trí tuệ đáng nể của Burt Rutan, một người bạn mà tôi đã quen biết trong nhiều năm. Burt là một trong những tài năng thực sự của thế giới và những thiết kế máy bay của anh đã được cất cánh trong hàng thập kỷ. Anh đã sẵn sàng cộng tác với Steve Fossett và tôi trong dự án chế tạo Virgin Atlantic Challenger Flyer Global, một chiếc máy bay đẹp và độc đáo mà chúng tôi dự định dành cho Steve (hoặc cho tôi nếu anh ấy ốm) để bay một chuyến không nghỉ vòng quanh thế giới. Chiếc máy bay nhìn thật tuyệt vời nhưng không tuyệt bằng chiếc tàu vũ trụ nhỏ tôi thấy trong nhà chứa máy bay năm ngoái và giờ đã bay vào vũ trụ khoảng 3.000 dặm một giờ trước đó ngay trên đầu chúng tôi tại sa mạc.
Một người bạn khác là Paul Allen, một trong những nhà sáng lập Microsoft đã tài trợ cho ý tưởng của Burt về một con tàu vũ trụ giá rẻ có thể dùng lại được trong một vài năm. Giống như Burt, Paul là người có tầm nhìn. Anh rất thích thú khi nhìn thấy giấc mơ của mình được mở ra và trở thành hiện thực trong ngày hôm sau. Mike Melville, một người phi công cực kỳ dũng cảm, đã đưa con tàu đó cách xa trái đất gần 100 kilômét. Tôi ngắm nhìn với niềm kính phục và nhận ra rằng tầm nhìn của chúng tôi về du lịch không gian giá rẻ có thể trở thành hiện thực. Khi ăn tối với Burt và Paul tối hôm trước, chúng tôi đã nói chuyện về tương lai của chuyến bay tư nhân lên vũ trụ bằng cách hợp tác với nhau và tối hôm đó tôi cảm thấy rất phấn khích. Tôi luôn luôn cảm thấy rằng sự độc quyền của Chính

phủ đối với vũ trụ là một mối đe dọa đối với loài người chứ không phải là lợi ích như lời bao biện của mấy tay chính trị gia nham hiểm và các nhà sản xuất vũ khí vì mục đích cá nhân. Chế độ độc quyền không hiệu quả trong bất cứ ngành công nghiệp nào cho dù đó là tư nhân hay nhà nước. Đây là cơ hội để Virgin hành động. Tôi chắc chắn rằng các bạn sẽ không ngạc nhiên khi chúng tôi đăng ký cả hai quyền thương hiệu và một công ty du lịch vũ trụ vào 10 năm trước với tên và Virgin Galactic Airways (Hãng hàng không ngân hà Virgin). Tập đoàn Virgin Group – “Tới vô tận và xa hơn nữa!” “Anh đang đùa sao?”, mọi người nói với tôi. Tôi trả lời: “Vâng. Virgin Intergalactic Airways” (Hãng hàng không liên ngân hà Virgin).
Năm 2004 trở thành một năm quan trọng đối với Virgin trên tất cả mọi mặt. Chuyện đùa về Virgin Galactic trở thành hiện thực vào tháng Chín năm đó. Sau một vài tháng thương lượng, Paul Allen đã đồng ý bán bản quyền công nghệ để sản xuất tàu SpaceShipOne cho Virgin Galactic và Virgin Galactic đã chính thức trở thành một công ty vào ngày 15/9/2004. Trong vòng hai tuần tàu SpaceShipOne có mang khẩu hiệu của Virgin đã thực hiện hai chuyến bay vào không gian – chuyến bay vào không gian tư nhân lần đầu tiên được thực hiện – đem lại cho Burt và Paul giải X-Prize với số tiền thưởng là 20 triệu đô-la dành cho bước đi đầu tiên của ngành du lịch vũ trụ. Các phương tiện truyền thông đưa tin điên cuồng và Burt trở thành vị anh hùng của nước Mỹ. Một trong những khoảnh khắc tự hào nhất của cuộc đời tôi đó là khi được đứng cùng Paul và Burt vào một buổi sáng tại sa mạc ở Mojave để nhìn chuyến bay thứ hai thực hiện thành công. Có một điều gì đó vào ngày hôm ấy khiến bạn nhận ra rằng chúng tôi đang theo dõi một câu chuyện lịch sử mở và nó gợi tôi nhớ đến một bộ phim ưa thích nhất của tôi: The Right Stuff (Những việc làm đúng đắn).
Thật không dễ để thuyết phục các đồng nghiệp điềm tĩnh của tôi tại Virgin Group đầu tư 100 triệu đô-la để làm một con tàu vũ trụ. Trên thực tế, tôi đã vô tình vớ được một bức email gửi cho nhau giữa các đồng nghiệp “điềm tĩnh”, Họ goi tôi là tôi là “Ngài nói Có” vì tôi nói “Có” với tất cả mọi thứ. Đến bây giờ, Stephen Murphy, người làm việc cho Virgin đầu những năm 1990 và một lần nữa quay trở lại cộng tác với chúng tôi, đã có những thứ để trở thành một Giám đốc điều hành thực sự, và trong ba năm qua, anh đã đứng đầu một ủy ban nghiên cứu kỹ lưỡng tất cả các quyết định đầu tư của chúng tôi. Khi Will Whitehorn phải trình bày với họ về việc tôi muốn bắt đầu kinh doanh các chuyến bay thương mại vào không gian năm 2008, họ cảm thấy hơi nghi ngờ. Trừ khi bạn gặp Burt Rutan và hiểu được những thành tựu của anh ấy, nếu không thì bạn sẽ rất khó có thể tin rằng một nhóm nhỏ ở sa mạc Mojave có thể sản xuất và bay an toàn trên một con tàu không gian tư nhân với giá rẻ. Nhưng thỏa thuận mở Virgin Galactic đã được hé lộ và sự tín nhiệm của dự án này cũng vậy, và vào đầu năm 2005, thậm chí các ngân hàng khó tính của tôi bắt đầu chấp nhận là dự án này có thể thực hiện được. Như các bạn đọc đã biết, tôi thường bị buộc tội là hay nói nhiều về bản thân nhưng tôi tin rằng trong tương lai gần, chúng tôi sẽ trở thành những phi hành gia tư nhân đầu tiên trên thế giới bay thường xuyên vào vũ trụ một cách an toàn chỉ với 200.000 đô-la hay thậm chí còn ít hơn.
Những điểm độc đáo của con tàu vũ trụ mà Burt thiết kế, khiến tôi cảm thấy tin tưởng

vào sự an toàn của động cơ phản lực và các thiết bị được làm bằng vật liệu nhẹ để bay vào không gian trái đất. Trong cả hai trường hợp, tài năng của anh ấy là tận dụng những ý tưởng cũ và áp dụng công nghệ mới để sản xuất. Hãy bắt đầu với động cơ phản lực. Nó độc đáo ở chỗ nó sử dụng hỗn hợp nhiên liệu từ khí tê, cao su và khí trơ, được pha trộn lại với nhau và bạn có một động cơ phản lực đáng tin tưởng hoàn hảo, động cơ này an toàn hơn cả động cơ phản lực bằng nhiên liệu lỏng dễ cháy của NASA. Một người hay chỉ trích chỉ ra rằng, nếu bất cứ điều gì xảy ra trong không gian thì ít nhất chúng ta cũng sẽ được ngậm cười khi nhắm mắt.
Các nét đặc trưng khác khiến cho con tàu vũ trụ được thiết kế lại từ một chiếc máy bay siêu âm trở thành một chiếc lá ngô đồng hay quả cầu lông trong không gian. Điều này cho phép máy bay quay trở lại bầu khí quyển chậm hơn tàu con thoi, và nguy cơ bị bốc cháy do quá nóng bị loại bỏ.
Điểm cuối cùng trong thiết kế của Burt là việc anh ấy sử dụng nhựa và vật liệu tổng hợp; cả tàu mẹ lẫn tàu vũ trụ đều không sử dụng kim loại, thay vào đó, anh sử dụng các chất liệu chống nhiệt nhẹ hơn và an toàn hơn nhôm hay thép. Cơ chế phóng tàu là rất an toàn, rẻ và thân thiện với môi trường. Để gây ra ảnh hưởng đối với môi trường giống như việc phóng một chiếc tàu con thoi thì chúng tôi phải phòng 10.000 chiếc tàu vũ trụ của mình. Điều này có nghĩa là ước mơ của hàng triệu người – những người có thể thăm các vì sao trong một ngày nào đó – có thể trở thành hiện thực. Tuy nhiên, điều này không đúng đối với Joan Branson, người không tình nguyện tham gia chuyến bay đầu tiên, cho dù cả bố, mẹ tôi, Holly và Sam đều muốn đi. Tôi không hề ngạc nhiên vì Joan vẫn thường siết tay tôi mỗi khi chúng tôi bay cùng nhau. Bố tôi sẽ ở tuổi 90 khi ông bay. Khi tôi hỏi ông có thấy lo lắng khi bay vào vũ trụ hay không, thì ông trả lời rằng, ở tuổi của ông thì đó là điều mà ông ít lo lắng nhất.
Nếu lòng tin của tôi và vị trí độc tôn của Burt Rutan trong lĩnh vực khí động học cần được củng cố hơn nữa khi chúng tôi bắt đầu xây dựng tàu vũ trụ thương mại đầu tiên trên thế giới, thì điều đó diễn ra vào cuối tháng 2/2005. Khi Steve Fossett đến gặp tôi vào năm 2002 để yêu cầu tôi là phi công hỗ trợ cho anh ấy khi anh bị ốm, tôi đã đồng ý, cũng như sẵn lòng tài trợ và quản lý việc xây dựng và hoạt động của máy bay bay vòng quanh thế giới giới bằng đường biển đầu tiên trên thế giới. Chúng tôi không thể mơ được rằng chỉ ba năm sau dự án đó đã có thể sản xuất ra một trong những chiếc máy bay đẹp và phi thường nhất từng có, đó là chiếc Virgin Atlantic Challenger Global Flyer. Tham vọng của Steve là bay vòng quanh thế giới bằng chiếc máy bay đó trong vòng tám giờ đồng hồ, sử dụng sự kết hợp của một trong những thiết kế phi cơ hiệu quả nhất và khả năng hiếm có của Rutan để tạo ra một chiếc máy bay lớn làm bằng vật liệu tổng hợp không chứa kim loại.
Đó là một buổi chiều lạnh cóng ngày thứ Hai, ngày 28/2 khi Steve Fossett tiến hành bay thử chiếc máy bay anh hùng của mình khởi hành từ Salina, Kansa. Chiếc máy bay trông thật tuyệt vời khi nó lăn trên đường bằng với 18.000 pound nhiên liệu trong tổng số cân nặng khoảng 21.000 pound của mình. Hàng nghìn người theo dõi chiếc máy bay cất cánh và mọi trái tim như ngừng đập khi chiếc máy bay cất cánh thì Steve bị trôi trở lại

đường băng, nhưng trước khi chúng tôi kịp nhìn thấy giây phút tai họa đó thì anh đã lao đi như một con chim nhạn bay lên trong bầu trời đêm của vùng Trung Tây.
Tôi theo anh trong những giờ bay đầu bằng một máy bay khác, và Will cùng nhóm của anh chuẩn bị hạ cánh xuống Toronto để tôi có thể khai trương Virgin Mobile vào ngày tiếp theo ở Canada. Khi chúng tôi bay vào trận bão tuyết, thì chiếc máy bay có gì đó trục trặc: Khi bay lên từ Kansas, Steve đã mất ít nhiên liệu và dường như hệ thống GPS của anh gặp sự cố khi bay qua biên giới Canada. Tôi bị đâm sầm xuống mặt đường rải nhựa và đá dăm khi va chạm với đội bay theo sau. Rốt cuộc, tôi buộc phải bỏ lại để bay về Toronto với nỗi lo không biết liệu Steve có như vậy không. Nhưng như hầu hết mọi thứ ở Scaled Composites (công ty của Burt ở sa mạc Mojave), mọi tình huống đều đã được lường trước, và trong 24 giờ tới thì John Karkow, một nhà thiết kế máy bay tài giỏi của Burt, đã ngồi tính toán và đi đến kết luận rằng nếu dòng khí quyển hẹp vẫn thổi mạnh xung quanh trái đất thì Steve có thể làm được. Trong 67 giờ đồng hồ, Steve đã chiến đấu với mọi yếu tố và anh bay ở độ cao gần 15 kilomet để cố gắng tận dụng nhiên liệu và gió sao cho hiệu quả nhất.
Rời Kansas lạnh giá vào đêm ngày thứ Hai, anh quay trở lại sân bay đó, thức trắng và hạ cánh ở bất cứ nơi nào trên bề mặt trái đất vào một ngày mùa xuân nắng đẹp. Đó là giây phút hạnh phúc nhất tôi từng có và dù không tham gia trực tiếp vào nỗ lực này nhưng tôi cảm thấy rất tự hào về Steve và cảm thấy đôi chút kỳ lạ với thành tựu mà anh đạt được – cảm giác mà bạn chỉ cảm nhận được khi ở cùng anh.
Không có nghi ngờ hay thắc mắc gì về điều mà anh đã đạt được. Đối với Steve, đó là một kỷ lục thế giới, nhưng đối với một hàng không quốc tế lớn, đó là một điều cực kỳ quan trọng bởi lẽ chúng tôi đã chứng minh được một điều rằng bạn có thể chế tạo một chiếc máy bay nhẹ, hiệu quả cao, sử dụng các vật liệu phi kim loại để làm thân máy bay hay cánh máy bay và đạt được độ cao ổn định khi bay. Chiếc Global Flyer tiêu tốn ít nhiên liệu trong một giờ bay hơn một chiếc xe tải bốn bánh của Mỹ. Nếu bài học về chiếc phi cơ này có thể được áp dụng cho máy bay dân dụng và trở thành một phần không thể thiếu của Boeing và Airbus thì ngành hàng không thương mại có thể trở thành một trong những cách thân thiện với môi trường nhất để đưa con người bay xung quanh hành tinh.
Tương lai của ngành công nghiệp hàng không trên thế giới trở nên ảm đạm là vào một buổi sáng mùa đông trong lành tháng 1/2005 tại Toulouse. Thật đặc biệt khi Thủ tướng Anh và Tổng thống Pháp có cuộc hội đàm với nhau từ khi mối quan hệ của hai nước trở nên xấu đi khi cuộc chiến chống khủng bố bắt đầu. Nhưng, buổi sáng hôm đó, tôi đã được đứng và theo dõi Tony Blair cùng Jacques Chirac mở cửa chiếc máy bay tuyệt vời nhất mà tôi từng thấy trong cuộc đời. Đó là một chiếc Airbus A380 khổng lồ và trông nó như một con quỷ. Tôi liên tưởng ngay đến bộ phim mới xem hai ngày trước có tên là The Aviator (Người phi công) nói về câu chuyện cuộc đời của doanh nhân người Mỹ, Howard Hughes. Chiếc Airbus này là chiếc máy bay đầu tiên khiến cho chiếc “Spurce Goose” khổng lồ được sản xuất năm 1946 trở nên bé tẹo. Trong chiếc A380, chiếc Airbus được thiết kế lớn nhất trên thế giới với sức chứa 800 người, mặc dù những người trung thành của Virgin thấy hài lòng khi nghe chiếc máy bay của chúng tôi chỉ chở được 550 người – do đó trên máy bay có

phòng đôi, có phòng tập thể hình, có sòng bạc mà chúng tôi vẫn muốn đặt trên những chuyến bay dài. Không giống như Howard Hughes, người chưa bao giờ có thị trường cho con voi trắng của mình, tôi nhìn chiếc Airbus A380 đầy tự tin. Biết toàn bộ câu chuyện về những mánh khóe bẩn thỉu, độc giả sẽ không ngạc nhiên khi biết rằng những chiếc A380 khổng lồ này sẽ được nhìn thấy ở Heathrow, vào năm 2005, BA vẫn còn kiểm soát gần 50% vị trí đậu máy bay và là nơi mà mọi người phải ngồi túm tụm chờ hạ cánh và các độc giả sẽ biết chúng quý giá đến mức nào.
Vào mùa hè năm 2004, tôi cũng tiến thêm một bước nữa trên con đường tiến tới giấc mơ của mình về việc sử dụng sức mạnh của nhãn hiệu và con người để thay đổi thế giới tốt hơn bằng cách thành lập một nhóm được gọi là Virgin Unite. Tổ chức mới này dành cho nhân viên Virgin khắp nơi trên thế giới và sẽ trở thành phương tiện để kết nối chúng tôi lại với nhau, hy vọng sẽ tạo nên một sự khác biệt với một vài thử thách xã hội khắc nghiệt hơn mà chúng tôi đang gặp phải. Holly tình nguyện dành thời gian bất cứ lúc nào mà con bé có trong năm cuối cùng học tại trường y để giúp chúng tôi về vấn đề sức khỏe tình dục mà giới trẻ đang gặp phải tại Anh – nơi mà khoảng 40 năm trước, tôi đã bắt đầu mở một trung tâm hỗ trợ sinh viên. Tôi cảm thấy rất vui khi nói rằng trung tâm đó vẫn đang cung cấp dịch vụ tư vấn miễn phí trên đường Portobello tại phía Tây London.
Cuộc chạy đua theo chiến tranh và hậu quả của nó không làm nhà Branson nản lòng. Holly đã đạt điểm A và hoàn thành (gần hết) mục tiêu của cuộc đời mình là học tại trường Đại học Y. Holly tổ chức sinh nhật lần thứ 21 của mình và Sam con trai tôi cũng vừa tròn 18 tuổi. Mặc dù Sam có thể không có chung một mục đích tại trường học như Holly, nó biết cách vui chơi và (có thể điều này giống bố nó) biết cách tận hưởng cuộc sống.
Joan và tôi rất tự hào về những gì Holly đã làm để tiến tới tấm bằng y khoa của mình nên chúng tôi quyết định tổ chức một bữa tiệc thật lớn nhân dịp sinh nhật lần thứ 21 của con bé. Thời tiết ở Kidlington, Oxfordshire thật là đẹp, buổi tối tháng 11 trời lạnh và Holly trông thật đáng yêu trong chiếc váy màu trắng. Joan và tôi huých nhẹ nhau và cùng nhau nghĩ về cô bé xinh xắn mà chúng tôi đã bế về chiếc nhà thuyền London tại kênh Regent năm 1984. Một vài tháng sau khi Sam tròn 18 tuổi, một sự kiện “nông nổi bồng bột” đã xảy ra ở Roof Gardens tại Kensington. Nếu nói rằng những lời nói của bạn nó là khiếm nhã thì đó là một cách nói giảm đi rồi. Vào dịp này, Joan và tôi phải bịt tai vào chứ không phải là huých nhẹ tay nhau nữa.
Những ngày ở Toulouse với chiếc Airbus A380 đã khiến tôi nhớ tới Howard Hughes và bộ phim khiến tôi nhận ra cái ranh giới mong manh giữa thiên tài và sự điên rồ, giữa lòng quyết tâm và sự bướng bỉnh. Tuy nhiên, một lần nữa tôi cám ơn những vì sao may mắn đã đem đến cho tôi một gia đình ổn định và luôn bên tôi suốt những năm khủng hoảng, khi Virgin vẫn phải hoạt động mà không có bảng cân đối kế toán của các công ty đa quốc gia hay sự độc quyền của nhà nước. Ngài Howard Hughes già tội nghiệp không hề có ai bên cạnh để có thể quay sang hỏi ý kiến hay cũng không có những người bạn và gia đình, những người mà sự dí dỏm, sự hấp dẫn và thông minh của họ có thể giúp chúng ta trong suốt cuộc đời, giúp ta tiếp tục bước đi khi chúng ta ngắm nhìn những vì sao.

Tôi cũng đã ra một quyết định quan trọng là dành thời gian cho bố mẹ tôi, đặc biệt là bố Ted, người nhiều tuổi nhất. Mặc dù họ đều khỏe ở tuổi 80, nhưng họ vẫn đi lại bằng máy bay, du lịch vòng quanh thế giới. Họ yêu thích châu Phi, và tôi cũng vậy. Năm 1999, chúng tôi mua khu bảo tồn rất đẹp có tên là Ulusaba ở Nam Phi, nơi chúng tôi xây một ngôi nhà trên núi nhìn ra khu rừng rậm. Chúng tôi điều hành nó như một công ty, nhưng chắc chắn là chúng tôi phải sắp xếp được thời gian để đến đó. Đó là khoảng thời gian đáng nhớ và trân trọng. Trong những thập kỷ qua, tôi càng đánh giá cao sự thông minh của bố tôi. Ví dụ, ông đã có lời khuyên rất thông minh về cuộc chiến tranh Iraq, cuộc chiến tranh mà ông phản đối kịch liệt, và nhờ cuộc chiến tranh đó ông đã củng cố quan điểm của tôi, đó là một khi sung nỏ, chúng tôi phải đứng bên nhau và hỗ trợ những người đàn ông và phụ nữ trẻ dũng cảm từ tất cả các nước đồng minh, những người đang “làm theo lệnh” tại Iraq.
Vào mùa xuân năm 2004, bố tôi hoàn toàn hồi phục sau cuộc phẫu thuật thay thế hông phức tạp một vài năm trước đó và tôi có một dịp nghỉ phép ngắn ở Virgin để đi cắm trại với ông ở Serengeti. Đó là một nơi tuyệt vời, nơi mà bạn có thể cảm nhận được thiên nhiên vẫn đang làm theo số mệnh của mình. Ở đó, tôi có thể hoàn toàn hiểu tại sao rất nhiều nhà nhân chủng học tin rằng đây là nơi con người có xuất phát điểm từ một loài. Chúng tôi dành 10 ngày để theo cuộc di cư theo bầy của loài dê rừng và loài sư tử ăn thịt. Đối với những người chưa bao giờ ở mười ngày trong lều với bố của mình – nếu bạn may mắn đã có dịp trải nghiệm – thì tôi có khuyên bạn nên thử. Tôi nghĩ chúng tôi đã hiểu nhau hơn rất nhiều khi chúng tôi nói chuyện nhiều với nhau khi đêm xuống.
Hơn tất cả, tôi ngạc nhiên trước sự hài hước của một người từng chứng kiến tất cả. Ví dụ, vào buổi sáng ngày sinh nhật ông; chúng tôi thức dậy và khá khó chịu sau một đêm ngủ trong lều nhưng bố tôi cứ rọi đèn. Chúng tôi không nói ra cho đến khi ông nói: “Nếu bố là một người theo Công giáo, bố sẽ sám hối trong ngày hôm nay. Bố đã có một giấc mơ tuyệt vời. Giấc mơ đó là về một cô gái.”
“Bố có làm gì sai trái với cô ta không?” Tôi hỏi
Bố tôi trả lời ngay: “Bố không biết ý con là gì. Bố đã xử sự rất tốt. Cô ấy thật là quá nghịch ngợm!”
Và đó là câu nói của một người đang ở tuổi 80.
Có rất nhiều thứ ảnh hưởng đến cuộc sống của tôi và đến cả cách tôi nhìn nhận mọi việc. Ulusaba mà một trong số đó. Ulusaba có nghĩa là “Nơi có chút đáng sợ” vì đó là một thành lũy đá hay một đài quan sát mọc lên từ rừng rậm, nơi các binh lính đứng và tấn công kẻ thù. Đối với tôi, đây là một nơi yên bình, nơi tôi có thể ngồi quanh đống lửa vào ban đêm cùng bạn bè và gia đình, lắng nghe các câu chuyện và các kế hoạch – giống như cách những người cổ xưa thường làm.
Tôi dành nhiều thời gian ở châu Phi và đã may mắn có dịp đi vào rừng rậm. Tôi nghĩ chẳng có nơi nào trên thế giới đẹp hơn ở đó và ngắm mặt trời mọc. Không khí trong lành hơn bất cứ nơi đâu trên thế giới và bạn hoàn toàn được hòa mình vào thiên nhiên. Tôi nhớ

một buổi hoàng hôn khi đi xuống con sông tại Ulusaba và tôi đã ngắm nhìn hai con sư tử ba tháng tuổi chơi đùa cùng mẹ chúng. Khi sư tử mẹ mệt, nó ngậm hai đứa con vào miệng và đưa chúng vào bụi cây. Tôi ngạc nhiên trước sự hiền lành của sư tử mẹ. Chúng tôi tiếp tục đi và thấy con báo ở trong khu bảo tồn thú săn của chúng tôi trong một thời gian dài chúng tôi đã đặt tên cho nó là Makwele. Nó đang chơi đùa cùng đàn con, chúng chạy qua những cái cây, ngã xuống và rượt đuổi thành vòng tròn. Sự nhanh nhẹn, uyển chuyển, khôi hài của chúng khiến tôi ngạc nhiên.
Lần đầu tiên tôi đến Ulusaba là khi tôi ở Nam Phi để mở đường bay của Virgin Atlactic đến Cape Town vào năm 1999. Lúc đó, tôi tìm một nơi nào đó đặc biệt trong rừng cây bụi và hướng đến vùng Sabi-Sand. Khi tôi lái xe, dãy núi đồ sộ hiện ra một cách đột ngột từ bụi cây, một cảnh tượng cổ xưa của trái đất. Chọn được địa điểm, chúng tôi đề nghị Mark Netherwood, một người bạn đã từng quản lý đảo Necker Island, cùng làm việc với chúng tôi để tạo ra một điều gì đó ấn tượng mà không làm hỏng khu rừng rậm. Không đâu giống Ulusaba của châu Phi. Rock Lodge nằm cao trên mỏm đá với tầm nhìn xuống khu rừng rậm hùng vĩ và các con thú săn mồi, ở dưới khu lòng sông là Safari Lodge, ở đó có một con đường xuyên bộ tuyệt với có tên là Robinson Crusoe đi qua rừng cây tới một con đập nơi những con hà mã và cá sấu đang dầm mình trong đầm lầy. Trong khu vực này của châu Phi không có nhiều thú săn mồi; bạn được đảm bảo rằng bạn có thể nhìn thấy hầu hết các loài sinh vật mà không phải đi quá xa. Bạn có thể thức dậy sớm vào buổi sáng hoặc buổi tối và lái xe đi thậm chí là đi bộ (với hướng dẫn viên), và bạn sẽ thấy nhiều điều ngạc nhiên.
Khi viết những dòng này, tôi có thể nhìn thấy những con hươu cao cổ đi ngang qua và những con voi ở phía xa xa. Tôi rất thích những con voi vì chúng rất thông minh và hiếu động. Những con voi nhỏ như lũ trẻ thơ hay những đứa trẻ ở thời niên thiếu. Chúng thích một loại cây có tên là marula có quả nhỏ màu đỏ và loại cây này rất hấp dẫn loài voi. Chỉ sáng nay thôi, tôi dành vài giờ đồng hồ ngắm nhìn một con voi đực nhỏ lay cái cây để lấy quả. Quả rơi xuống như kẹo và được con voi hút vào bằng vòi. Nhưng khi nó chuẩn bị ăn thì anh nó đến và cố gắng ăn tranh. Chúng đã đánh nhau. Chú voi đực nhỏ hét lên: “Sao anh dám ăn kẹo của em” – giống như cách con người làm. Những con voi không bao giờ phá hủy cửa hàng kẹo marula của chúng, nhưng số lượng voi đang nhiều lên và chúng đang phá hủy rất nhiều loài cây khác. Con người muốn giết voi. Chúng tôi cố gắng giúp đỡ loài voi để chúng không bị giết và tôi nhận ra rằng không ai thực sự trồng cây trong rừng rậm.
Do đó, một phần cùng với sự nóng lên của trái đất, một phần để tránh việc giết voi và một phần để tạo việc làm cho người châu Phi, chúng tôi đang lập một vườn ươm cây và sẽ lao động chăm chỉ để trồng lại những loại cây đó ở trong rừng. Rất nhiều cây sẽ bị voi hay hươu cao cổ dẫm nát hay thậm chí bị c ăn, những những số khác sẽ sống sót.
40 năm trước, tôi đã làm việc chăm chỉ cho Virgin phát triển trở thành một công ty toàn cầu lớn. Cùng với những thành công lớn, chúng tôi gặp rất nhiều thử thách, được làm dịu đi bằng niềm vui và trong một thời gian dài, như thế dường như là đã đủ. Nhưng trong khi mình nhận thức về sự cần thiết về trách nhiệm xã hội, thì dần dần tôi cảm thấy mình nên làm nhiều hơn nữa trên phương diện rộng hơn để giúp đỡ mọi người. Thành lập Virgin Unite là một phần của quá trình phát triển của tôi như là một nhà doanh nghiệp xã hội.

Một trong những chuyến đi đầu tiên của tôi cùng với Virgin Unite là chuyến đi tới Nam Phi cùng Brad Pitt. Bệnh HIV/AIDS đứng đầu trong lịch trình của chúng tôi, chúng tôi cùng Brad đến thăm một số bệnh viện ở các thị trấn khác nhau ở các vùng nông thôn. Khi đến một bệnh viện, chúng tôi thấy các bức tường được dán đầy quảng cáo của những người làm dịch vụ tang lễ. Vào bên trong, chúng tôi bị sốc khi nhìn thấy hàng trăm người từ bỏ bản thân chết dần chết mòn với căn bệnh HIV/AIDS. Bên ngoài hành lang, mọi người đang chờ những chiếc giường của hàng chục người vừa chết đêm qua – nó giống như băng chuyền chở người chết vậy. Dường như không có điểm kết thúc cho sự chịu đựng vì thậm chí các nhân viên của bệnh viện cũng chấp nhận kết quả này là một phần không thể tránh khỏi của “Châu Phi”.
Những con số vừa được công bố trong vài năm nhưng thường bị bỏ qua dường như là quá lớn để có thể hiểu được, do đó mọi người thường không để ý đến nữa. Con số 15 nghìn người đang chết mỗi ngày vì HIV/AIDS, TB và sốt rét là quá nhiều để có thể chấp nhận được, và hầu hết là xảy ra ở tiểu vùng Saharan, châu Phi. Nếu điều này xảy ra ở Anh hay ở Mỹ, chúng ta sẽ không cho phép nó xảy ra.
Tôi cảm thấy bị xúc phạm bởi sự nực cười này. Những căn bệnh này có thể chữa trị, nhưng chúng không được chữa trị. Dường như châu Phi gặp phải rất nhiều vấn đề nan giải
– làm sao họ có thể thay đổi tình thế nhanh hơn được? Chúng tôi khá thờ ơ khi đưa Brad đi gặp Nelson Mandela tại nhà của anh để bàn về chiến dịch AIDS 46664. Trong chiến dịch đó, Mandela đã sử dụng số hiệu tù của mình để kêu gọi Nam Phi không khai giảm số lượng bệnh nhân AIDS khi thống kê. Bỏ qua các số liệu thống kê là một việc dễ dàng vì bạn sẽ thấy mệt mỏi khi có quá nhiều số liệu. Một khoảng khắc nhẹ nhàng hơn đến với tôi là khi tôi giới thiệu Brad và Mandela: “Đây là Brad Pitt trong các bộ phim” và Mandela quay sang nháy mắt nói với Brad: ‘Oh, anh làm phim gì thế?’”.
Sau đó, trong khi Brad đang đứng chụp ảnh cùng Nelson Mandela, Mandela mặc áo phông có số 46664 thì ai đó thì thầm rằng vị cựu Tổng thống thật là người may mắn khi có rất nhiều phụ nữ trẻ cảm thấy hạnh phúc khi được ngồi gần ông. Brad cười và hóm hỉnh trả lời: “Cả những người đàn ông trẻ nữa chứ!”
Ngày hôm sau, chúng tôi đưa Brad đến gặp Taddy Betcher, người tự một mình gây dựng CIDA, trường đại học miễn phí đầu tiên của châu Phi ở thành phố Johannesburg. Taddy đã bắt đầu từ hai bàn tay trắng, nhưng anh nghĩ rằng nếu anh được giao một tòa nhà trống, nếu anh có thể hạ thấp chi phí bằng cách yêu cầu học sinh tự điều hành ngôi trường và tự nấu nướng, tự dọn dẹp vệ sinh và tự quản lý và nếu anh có thể kinh doanh bằng cách để các nhân viên hàng đầu của anh đến giảng dạy, thì anh có thể đem đến cho sinh viên một tấm bằng kinh doanh được chính thức công nhận mà không phải trả bất cứ chi phí nào cả. Hầu hết những người dân châu Phi chưa bao giờ có được kiểu giáo dục như thế này vì họ đều đến từ những vùng nông thôn hoặc thị trấn nghèo nàn. Những đứa trẻ nghèo đến từ các vùng nông thôn hoặc thị trấn chưa bao giờ có cơ hội được đứng trên nấc đầu tiên của chiếc thang danh vọng, nhưng 1.600 học sinh đang được đào tạo mỗi năm thông qua CIDA để lấy bằng có tiêu chuẩn dưới 300 đô-la cho một khóa học, bao gồm cả sách giáo khoa và nơi ở.

Tôi đánh giá cao những gì mà Taddy đang làm và chúng tôi sớm bắt đầu hợp tác với CIDA, Lover Life và Life College, ba tổ chức doanh nghiệp xã hội nhỏ nhằm xây dựng một chương trình tốt nghiệp với tên gọi Woman on the move (Phụ nữ năng động). Chương trình này sẽ giúp những phụ nữa trẻ đào tạo lẫn nhau. Khi họ được đào tạo, họ sẽ quay trở lại cộng đồng của mình và đào tạo lại cho khoảng 30 người trẻ khác trong khu vực đó. Bằng cách này, chúng tôi bắt đầu xây dựng một lực lượng trên khắp Nam Phi để tham gia vào chương trình đào tạo. Một phần cơ sở của chương trình này sẽ lan đi như là một thông điệp quan trọng về giáo dục y tế, vốn đang là vấn đề cực kỳ cần thiết tại châu Phi.
Rất nhiều thứ đã có xung đột và đến với nhau trong suốt chuyến đi khiến tôi muốn đóng góp thêm sức lực vào công việc, nhưng những chuyến đi với bệnh viện và các trại trẻ mồ côi quá tải là những chuyến đi có ảnh hưởng nhất đến tôi. Tôi quyết định cống hiến nhiều thời gian hơn – khoảng 50% thời gian của mình – dành cho các hoạt động xã hội và môi trường. Tôi cảm thấy tôi đã đi một chặng đường dài tới châu Phi trong năm năm kể từ khi tôi phát hiện ra Ulusaba.
Chuyến đi của tôi tới châu Phi là một chuyến đi dài và đầy trải nghiệm. Cái chết là một phần của cảnh quan, và trong khi những loài vật đang săn giết nhau trong khu rừng rậm thì chẳng có lý do gì mà rất nhiều người châu Phi lại phải chết vì những căn bệnh có thể phòng tránh được.
Một số cơ hội giúp đỡ đang ở quanh đây. Tôi trở về từ châu Phi trên chuyến bay của Virgin Atlantic Challenger một ngày và như thường lệ, tôi đi dạo xung quanh, nói chuyện với hành khách. Một phụ nữ dễ thương ngồi ghế hạng thường nhìn tôi và cười. Cô mời tôi ngồi bên cạnh một chút. Cô ấy giới thiệu cô ấy tên là Marianne Haslegrave và là Giám đốc của The Commonwealth Medical Trust (Hội Niềm tin Y tế). Tôi hơi lúng túng nhưng tôi không nghĩ là tôi sẽ thảo luận với cô về bệnh rò.
Cô nói với tôi về bệnh rò, và đây là lần đầu tiên tôi nghe đến căn bệnh này này. Khi bị mắc bênh rò, các cô gái trẻ ở độ tuổi 12 hay 13 phải tự sinh con mà không được ai hỗ trợ, đó là một phong tục ở một số quốc gia như Nigeria và Somalia. Một vết rách ở âm đạo, gọi là đường rò khiến cho nước tiểu không cầm lại được; và kết quả là những người phụ nữ trẻ này bị chồng bỏ và bị gia đình xa lánh. Nhờ có công tác chăm sóc bà mẹ tốt, trường hợp mắc chứng này cuối cùng ở Mỹ là vào năm 1890, nhưng căn bệnh này này vẫn còn phổ biến ở châu Phi.
Marianne đã cống hiến cả cuộc đời mình để giúp đỡ những cô gái này. Tôi biết rằng mình phải làm gì đó và yêu cầu Jean Oelwang, người đang điều hành Virgin Unite xem xét vấn đề này. Jean đến Quỹ dân số của Liên Hợp Quốc (UNFPA) để xem chúng tôi có thể giúp được gì. Anh đến đúng lúc một người bạn tốt là Natalie Imbruglia đến gặp tôi và nói cô ấy muốn làm một điều gì đó để giúp đỡ những người phụ nữ trẻ. Tôi mời cô và Jean ăn trưa và Natalie đồng ý tham gia chiến dịch giúp cải thiện chứng bệnh đường rò này vì không có ai khác đứng phía sau vấn đề này.
Chúng tôi đưa cô đến Ethiopia và Nigeria để cô có thể tự nhìn nhận vấn đề. Cùng lúc đó,

tôi góp tiền và thông qua công việc tuyệt vời này cùng sự cống hiến của nhóm tại UNFPA, chúng tôi làm việc về căn bệnh đường rò ở Nigeria trong vòng nửa tháng. Tại đó, trong vòng hơn hai tuần, 500 phụ nữ trẻ đã được chạy chữa và chúng tôi tiến hành nâng cấp bệnh viện. Từ đó, Natalie đã làm việc không mệt mỏi cho dự án của mình và tôi thấy tự hào về cách cô ấy tập hợp mọi người khi cần. Cô ấy còn trẻ, xinh đẹp và có tài, cô sẵn lòng giúp đỡ những vấn đề tưởng như bình thường nhất và điều đó khiến cô ấy trở thành một hình mẫu có vai trò quan trọng. Cô ấy cũng sử dụng âm nhạc của mình để nâng cao nhận thức về chứng bệnh rò này và để gây quỹ – chính điều này đã đem đến cho chúng tôi ý tưởng tổ chức một phong trào âm nhạc, nơi mà các nhạc sĩ sẵn sàng và có thể tham gia vào các hoạt động xã hội khó khăn. Natalie nói với tôi rằng việc tận mắt chứng kiến những phụ nữ trẻ thế này là một trong những chuyến đi buồn nhất của cô. Đó là điều tồi tệ nhất xảy ra với họ
– rất nhiều người trong số đó mới chỉ là những cô bé, bị cộng đồng ruồng bỏ, xa lánh. Một vài trong số họ đã sống trong những túp lều đằng sau gia đình hơn 20 năm. Thật là vô nhân đạo khi tình trạng này vẫn đang xảy ra trong khi có thể giải quyết nó một cách dễ dàng. Điều này có thể tránh được bằng cách kiểm soát hộ sinh và hạn chế việc các cô gái trẻ phải kết hôn quá sớm, nhưng thật là khó khi chúng ta muốn áp đặt quan điểm của mình lên các nền văn hóa khác – tuy nhiên, ít nhất chúng ta cũng được phép giúp đỡ để cải thiện tình hình và cung cấp các chương trình đào tạo và giúp đỡ họ cải thiện cơ sở hạ tầng y tế.
Tôi cố gắng tỏ ra lịch thiệp, nhưng có lúc bạn phải nói ra suy nghĩ của mình để diễn đạt đúng ý của mình, như trường hợp khi tôi nói với thượng nghị sĩ của Mỹ vào hồi cuối năm 2005 về một phần của dự án phát triển liên minh về HIV/AIDS. Trên xe taxi, Jean giải thích ngắn gọn với tôi: “Có một số vấn đề với chính quyền Bush liên quan đến bao cao su. Họ đã cam kết tài trợ một lượng tiền lớn dành cho chiến dịch chống virus HIV/AIDS nhưng họ không sẵn lòng mua bao cao su.”
Tôi gật đầu “Ừ, tôi hiểu.”
“Vì thế anh hãy cẩn thận về cách anh nói về vấn đề này tại Thượng nghị viện” Jean tiếp tục.
Ngay khi cô nói thế, tôi mỉm cười.
Tôi thấy hơi kỳ cục khi ở trong nhà Thượng nghị viện để bàn về vấn đề tình dục. Ai đó sử dụng từ “chăn thả” để miêu tả cách HIV có thể lây lan qua quan hệ tình dục với nhiều người
– giống như một con ong đi từ bông hoa này sang bông hoa khác. Một trong những nghị sĩ của Đảng Cộng hòa đứng bật lên và tuyên bố rằng mọi người nên kiêng quan hệ tình dục.
Tôi đứng lên và nói: “Điều đó rất hay, nhưng không thực tế. Mọi người đang đi quan hệ lung tung – nhưng họ nên sử dụng bao cao su khi quan hệ. Không sử dụng bao cao su, không quan hệ.” Tôi có thể cảm thấy Jean đang dùng tay che mặt cười.
Tôi đang hy vọng vào một đám người tiên phong đứng ngoài sân của CIDA vào một buổi chiều, tôi gặp Đức Đà Lai Lạt Ma lần đầu tiên và thật bất ngờ, Taddy gặp tôi trên vỉa hè và nói: “Này, Richard, tôi vừa có một ý tưởng hay. Tại sao anh không mở trường Branson

School về kinh doanh nhỉ?”
Taddy là một người đàn ông có khiếu truyền cảm hứng, và khi anh nói, bạn sẽ thấy mình đang gật đầu đồng ý. Từ những lời anh ấy nói trên phố, tôi quyết định sẽ xây dựng ngôi trường đầu tiên của mình. Trường CIDA đã cung cấp những tấm bằng quản lý kinh doanh được chính thức công nhận đặc biệt dành cho những sinh viên gặp hoàn cảnh khó khăn, và tôi kiên quyết rằng Virgin Unite sẽ làm việc với Taddy để mở một ngôi trường riêng tại CIDA nhằm giúp đỡ những người trẻ bắt đầu công việc kinh doanh của riêng mình. Một trong những điều đầu tiên mà chúng tôi muốn làm là gây quỹ vay vốn quay vòng dành cho các công ty của sinh viên. Ngay khi các công ty này có lợi nhuận, họ sẽ trả lại tiền vay và số tiền đó sẽ được sử dụng cho các công ty khác mở sau.
Mô hình của tôi là từ Muhammad Yunus, người có 30 năm thành công trong việc điều hành một hệ thống tín dụng vi mô dành cho những người nghèo nhất trên thế giới, thông qua ngân hàng Grameen Bank, ngân hàng dành cho người nghèo. Ông là người đầu tiên cho một nhóm thợ thủ công vay 27 đô-la để bắt đầu công việc kinh doanh của họ vào năm 1976 khi ông còn là một giáo sư về kinh tế tại Banladesh. Ông đã cho họ vay và tin tưởng rằng họ sẽ trả lại tiền cho ông – như ông nói: “Những người nghèo nhất trong những người nghèo có tinh thần trách nhiệm rất cao”. Thậm chí ông cho một người ăn mày vay 55.000 đô-la trong chương trình dành cho những người có hoàn cảnh khó khăn. Tầm nhìn xa của Giáo sư Yunus là xóa bỏ cảnh đói nghèo. Cho đến nay, ông đã cho 350 triệu người vay số tiền trị giá 1,5 tỷ đô-la, phần lớn là phụ nữ và rất ít người không trả nợ cho ông.
Virgin Atlantic Challenger tài trợ cho sáng kiến Fast Track (Con đường nhanh nhất) của tờ báo Sunday Times, tờ báo đã rủ mười nhà doanh nghiệp hàng đầu đến ăn tối tại nhà tôi hàng năm tại Oxford, nhằm đóng vai trò như một nhà cố vấn cho các công ty non trẻ. Tôi bán đấu giá hai vị trí trong chương trình Wake up Trips (Chuyến đi thức tỉnh) tới châu Phi. Hai nhà doanh nghiệp của Anh là Tom Bloxam và Leo Caplan đấu giá với giá 120.000 bảng để đi cùng chúng tôi. Việc này đã khởi đầu quỹ ban đầu cho các hoạt động kinh doanh của sinh viên để giúp họ bắt đầu kinh doanh với thế giới. Hầu hết mọi người đều cắt băng khánh thành, mở rượu vang khi khởi đầu một điều gì mới mẻ. Thay vào đó, vào tháng Mười, tôi cùng với Tom và Leo tháo giầy và tất, in dấu chân lên mặt sân bê tông tại sảnh ra vào của ngôi trường doanh nhân Branson mới mở. Tôi thấy xúc động khi nhìn thấy dấu chân của chúng tôi, tôi hy vọng nó sẽ truyền cảm hứng cho các sinh viên khi “bước vào dấu chân của các doanh nhân toàn cầu”. Dấu chân đầu tiên của con người được tìm thấy trên đất sét ở phiến đá tại châu Phi. Nhưng đối với tôi, điều quan trọng hơn đó là tại tòa nhà số 27 Harrison Street, nơi Nelson Mandela đã làm việc khi còn trẻ trước khi ông bị bắt giam trong nhiều năm liền. Tiểu sử của ông được viết sau khi ông được trả tự do có tên là Long way to Freedom (Hành trình dài tới tự do); các sinh viên cũng sẽ có một bước dài trên con đường của họ để tiến tới sự tự do trong kinh doanh chống lại rất nhiều những điều nhảm nhí khác.
Chủ nghĩa Tư bản – ở dạng thuần túy nhất là các nhà doanh nghiệp thậm chí giữa người những người nghèo nhất trong số những người nghèo – đã có hiệu quả; nhưng những ai

kiếm được tiền từ đó thì hãy đem tiền cho xã hội, đừng chỉ ngồi lên đống tiền như thể là họ đang ấp trứng vậy. Mỗi cá nhân tại trường Branson School đều có ý tưởng lấp đầy khoảng trống ở đây và ở kia. Khi cơ hội đến, họ sẽ sớm nhận ra xem nó có đáng để theo đuổi không. Các sinh viên sẽ bán tiền, hình thành các mối làm ăn, trở thành hướng dẫn viên du lịch, mở quán cà phê trên phố và nhà hàng – bất cứ thứ gì có thể khiến họ thoát khỏi thị trấn và các khu nhà ổ chuột.Tôi thường tạt qua đó khi ở Nam Phi và tôi cảm thấy ngạc nhiên và cảm động khi nhìn một vài đứa trẻ lấp một số cái hố trên đường vào sau đó đứng sang một bên đường để xem có ai đủ lòng tốt để trả tiền cho chúng vì đã lấp hố hay không. Đó là một ví dụ về Chủ nghĩa Tư bản.
Khi Sam tròn 18 tuổi và rời trường học, nó nghĩ sẽ dành một năm để đi du lịch. Tôi nghĩ đó là một ý tưởng hay và tôi hỏi liệu tôi có thể đi theo nó một thời gian không. Tôi đã làm việc khá cần cù từ khi 15 tuổi, tôi không muốn làm người khác thất bại và không muốn bỏ lỡ một năm chuyển giao. Thật may mắn, chúng tôi là một gia đình, mọi người có thể lựa chọn để đi du lịch cùng nhau hơn là đi riêng lẻ, và Sam với tôi rất thân thiết nhau, nên đó không phải là vấn đề “hiểu nhau hơn nữa” mà là muốn có khoảng thời gian vui vẻ bên nhau. Tôi phải đi Australia vài lần để họp và sau đó chúng tôi đi dọc theo bờ biển để đến Vịnh Byron, điểm xa nhất về phía tây của nước Australia. Chúng tôi ở một phòng trong khách sạn Rae, một khách sạn nhỏ kỳ lạ, mang phong cách Địa Trung Hải Morocco nhiều hơn là của vùng quê Alice Springs, nằm ngay trên bờ biển Watego và dọc theo đường mũi đất Byron Lighthouse, nơi có nhiều con đường uốn khúc chạy qua khu rừng nhiệt đới thần thoại. Khi khu rừng mở ra vùng đất mũi, chúng tôi nhìn thấy một con cá đuối lười nhác đang bơi dọc và một đàn cá mập nhỏ.
Tại thị trấn nhỏ Byron, một đám người hippi đang reo hò theo kiểu phương Tây trên đường. Ở đây có nhiều cửa hàng trống đánh bằng tay hơn ở San Francisco và khói cần sa bay nặng nề trong không khí, giống như thời gian đang trôi ngược về thời Mùa hè của tình yêu vậy.
Buổi sáng đầu tiên, chúng tôi dậy sớm và chạy xuống bãi biển với hai chiếc ván lướt để “bắt vài con sóng”. Sam và bạn của nó biết lướt ván nhưng tôi chưa bao giờ thử cả. Tôi có thể lướt với diều và cho dù vậy thì lướt sóng vẫn rất khó đối với tôi. Tôi chỉ chờ sóng đến, trèo lên ván lướt và nó đưa tôi vào bờ. Ngày đầu tiên, tôi không thể nào đứng dậy. Ngày thứ hai, tôi không thể đứng dậy. Trong đầu tôi vẫn nhớ có đàn cá mập ngoài xa phía mũi đất.
“Dễ lắm, nhìn này chú làm như thế này này, chú Richard”. Một đứa bạn rám nắng của Sam cười nắc nẻ khi chúng nhao đi trên một con sóng dài, cuộn tròn.
Tôi quyết tâm nhưng tôi vẫn phải rất vất vả trong ngày thứ ba khi ai đó bên cạnh tôi nói: “Này, Richard, có hai người đang nấp trong bụi cây với quả máy ảnh có ống kính viễn vọng đây.”
Ngay lập tức, lòng tự trọng của tôi dâng cao hơn và con sóng tiếp đến, tôi đứng dậy, giữ thăng bằng như một nhà chuyên nghiệp già và lái tấm ván một cách êm ru. Nó giống như lái xe đạp vậy. Bạn cố gắng và cố gắng, đột nhiên bạn ngã và không bao giờ nhìn lại.

Đó là một ngày hoàn hảo, một trong những giây phút ít ỏi trong cuộc đời tôi, tôi thấy chẳng có gì là quan trọng. Tôi không gọi điện thoại, tôi không nghĩ về bất cứ thứ gì. Tôi đang ở trên những con sóng, không quan tâm đến thế giới. Những ngày như thế này quả là hiếm có và quý báu. Tôi nhớ khi Holly khoảng năm tuổi, chúng tôi đi chơi một tuần đến một làng chài ở Bantham, Devon mà không có Joan đi cùng. Đó là một tuần cực kỳ đặc biệt cho cả hai chúng tôi.
Một vài năm sau khi tôi lướt ván thành công, Sam và tôi lái xe 60 dặm để đến một vùng núi, làm những điều ngốc nghếch, kể những câu chuyện phiếm và cùng nhau cười, chúng tôi giống như hai người bạn tốt hơn là cha và con. Chúng tôi rất hạnh phúc một cách cởi mở và chúng tôi không muốn ngày đó kết thúc.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Nhấn vào giữa màn hình để hiển thị Tùy chọn đọc.
Theo dõi Đọc Sách Hay trên Facebook, mỗi ngày chúng tôi cập nhật những cuốn sách, truyện hay nhất!
Đường Ra Biển Lớn Chương 30: TÍNH ĐA DẠNG VÀ NHỮNG ĐIỀU BẤT LỢI

Có thể bạn thích