Dòng Mực Cũ
Chương 7

Rồi một mặt tăng cường phòng thủ nhà tù, một mặt bàn mưu tính kế cố tìm đủ mọi cách để tiêu diệt đảng trưởng VNQDĐ. Chúng kết luận: Nếu Nguyễn Thái Học bị bắt thì đảng viên như rắn mất đầu, nhất là những đồng chí đang ở tù, không còn chút hy vọng gì nữa, sẽ xuống tin thần rất nhanh, và Quốc Dân Đảng có thể tàn lụi và tan rã. Với đầu óc đầy thủ đoạn, hung thần Brides nghĩ ngay ra một kế. Trong số trên dưới 200 đảng viên đang bị thẩm vấn và nhốt ở Hỏa Lò, có nhà văn Ngô Văn Triện, bút hiệu Trúc Khê, lúc ấy đã có chút tên tuổi trong giới trí thức Hà Thành. Ông Triện ôm giấc mộng đánh Pháp từ thuở nhỏ, từng có ý lập đảng cách mạng. Năm 26 tuổi, ông gặp Phạm Tuấn Tài, sinh hoạt trong nhóm Nam Đồng Thư Xã phổ biến văn thơ yêu nước. Ngô Văn Triện tham gia rồi biến cả nhóm thành VNQDĐ. Vụ ám sát Bazin đưa ông vào tù do Bùi Tiên Mai khai tên ông trong danh sách yếu nhân của Quốc Dân Đảng.

Biết ông Triện có uy tín và là chỗ giao tình với Nguyễn Thái Học, mật thám liền lôi ông lên, vừa đánh vừa đập vừa dụ dỗ. Chúng bảo ông viết một lá thư riêng cho Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu, khuyên cả hai ra đầu thú để cứu 200 đảng viên đang bị giam cầm. Chính quyền bảo hộ cam kết nếu Nguyễn Thái Học ra nạp mình thì mọi đồng chí sẽ được thả ngay. Còn riêng Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu thì sẽ bị bán án đại khái cho có lệ mà thôi! Nguyễn Thái Học đừng vì ích kỷ bản thâm mà làm hại các đồng chí hiện đang bị tra tấn trong ngục!

Trúc Khê Ngô Văn Triện lúc đầu còn cứng rắn từ chối, về sau bị tra tấn thể xác và khủng bố tinh thần dữ dội quá, đành xiêu lòng ngồi viết thư cho đảng trưởng với nội dung như trên.

Trùm mật thám Brides có được bức thu dụ hàng trong tay, vui mừng khôn xiết, nhưng không biết làm cách nào để gửi cho Nguyễn Thái Học bởi có biết Nguyễn Thái Học ở chỗ nào đâu mà gửi! Đầu óc lưu manh bẩm sinh, hắn lại nghĩ ra được một kế khác: Hắn biết gần đây hai chị em cô Bắc cô Giang là những người rất gần gũi với Nguyễn Thái Học, biết rõ đường đi nước bước của đảng trưởng. Như vậy chỉ có cách nhờ cô Giang hoặc cô Bắc trao thư cho Nguyễn Thái Học là chắc ăn hơn cả.

Nhưng chính cô Giang cô Bắc cũng ít khi có mặt ở nhà thì làm thế nào mà gặp được! Mật thám Pháp một lần nữa đi đường vòng: Chúng biết cô Giang cô Bắc có hai người bạn thân cùng ở phủ Lạng Thương là hai chị em nhà họ Trịnh tên là Nhu và Uyển. Hai chị em Bắc Giang thì theo Quốc Dân Đảng. Còn hai chị em Như Uyển thì theo VNTNCMĐCH, lúc này vừa biến thành Đông Dương Cộng Sản Đảng. Dù đoàn thể khác nhau nhưng hai chị em cô Bắc cô Giang vẫn giữ mối thân tình với cô Nhu và cô Uyển vì vừa là tình đồng hương, vừa là cùng chí hướng chống Pháp.

Hai cô Nhu Uyển có người anh cả tên Trịnh Đình Chiêm, tuy không chính thức hoạt động cho cách mạng nhưng cũng nặng lòng yêu nước. Một hôm Brides ra lệnh bắt Chiêm về đồn, gán cho tội chống chính phủ bảo hộ, đánh cho một trận nhừ tử rồi gọi hai chị em vào coi. Thấy anh mình thân thễ đầy những vết bầm tím lẫn với máu me, hai cô em đau xót như xé gan. Bấy giờ Brides mới bảo:

- Tao biết hai đứa chúng mày là đảng viên cộng sản! Tội của chúng mày với thằng anh chúng mày đều đáng chặt đầu! Nhưng tao cho hai đứa chúng bay một cơ hội để lập công chuộc tội. Nếu muốn cứu anh chúng mày cũng như chính bản thân chúng mày khỏi bị chặt đầu, thì hai đứa chúng mày chỉ việc trao tận tay Nguyễn Thị Bắc hoặc Nguyễn Thị Giang một bức thư để chúng nó chuyển cho Nguyễn Thái Học! Đơn giản có thế thôi. Nếu chúng mày làm được việc này, thì chẳng những Trịnh Đình Chiêm được thả mà còn có thể được Pháp ban thưởng. Về phần chúng mày thì tao cũng ngơ cho, không bắt nhốt!

Vì thương anh, hai cô Uyển, Như nhận lời, cầm lá thư ra đi.

Ra khỏi cổng nhà giam, hai cô bàn nhau đến gặp đồng chí Mai Ngọc Thiệu lúc ấy đang là Bí Thư Xứ Ủy Bắc Kỳ của VNTNCMĐCH để báo cáo sự việc và xin chỉ thị. Ban chấp hành Xứ Ủy liền triệu tập phiên họp bất thường để xử lý trường hợp gai góc này, vì trong quá khứ chưa xẩy ra bao giờ. Hôm ấy là cuối tháng 5 năm 1929. Đại hội Xứ Ủy nhất trí quyết định: Phải đưa hai cô Như Uyển sang Quãng Châu, để lại bên đó công tác cho tổng bộ TNCMĐCH, bởi nếu để lại trong nước thì một là Pháp sẽ tiếp tục lợi dụng khai thác, hai là sẽ có sự ngộ nhận rồi gây nên xung đột giữa TNCMĐCH và VNQDĐ. Mai Ngọc Thiệu thay mặt xứ ủy, chỉ thỉ Tỉnh đảng bộ Hải Phòng thu xếp đưa hai chị em Uyển, Như sang Quãng Châu bằng tàu thủy càng sớm càng hay.

Ba hôm sau, Uyển và Như đáp xe lửa xuống Hải Phòng. Ban chấp hành Tỉnh Bộ Hải Phòng đã được Xứ Ủy thông báo trước, liền họp nhau để chuẩn bị nhận hai nữ đồng chí mà họ từng nghe là rất tích cực hoạt động cho đảng. Phòng họp tỉnh bộ Hải Phòng hôm ấy có đến 9 đồng chí tham dự, do Nguyễn Đức Cảnh chủ tọa. Lúc ấy, Cảnh 21 tuổi, vừa từ Hà Nội xuống giữ chức Bí Thư Tỉnh Đảng Bộ tỉnh Hải Phòng.

Thời gian này, Cảnh cùng Đỗ Ngọc Du thường xuyên họp hành với ba đồng chí vừa bỏ Đại Hội Hồng Kông về chỉ vì đại hội không đồng ý việc đổi tên thành Đảng Cộng Sản. Họ xông xáo đi tranh thủ vận động các chi bộ TNCMĐCH yêu cầu họ thoát ly tổ chức cũ, đổi tên thành Đông Dương Cộng Sản Đảng. Công việc khó khăn và tế nhị vì nhiều người muốn giữ lại TNCMĐCH, chưa thuận tiện để ngả hẳn theo cánh Cộng Sản của Cảnh.

Giữa lúc ấy, Xứ Ủy Mai Ngọc Thịệu, tức Cả Sâm, bí mật chỉ thị Đỗ Ngọc Du phụ trách việc đưa hai chị em Uyển Như sang Trung Quốc. Du liền bàn với Cảnh đề xuất phương thức giải quyết chuyện quan trọng này. Cái ý trong đầu Cảnh và Du đã có sẳn nhưng muốn tránh trách nhiệm, Cảnh liền triệu tập buổi họp đảng bộ để mọi người cùng chia xẻ. Trong số 9 đảng viên hiện diện tại buổi họp, ngòai Nguyễn Hửu Cảnh và Đỗ Ngọc Du, còn có Quốc Anh, Kim Tôn và Sĩ Quyết đều cùng chủ trương sắt máu như Cảnh. Những đồng chí khác như Nguyễn Thị Vinh, Lê Văn Đống và Hồ Ngọc Lân thì chỉ tham gia thầm lặng, không có ý kiến gì.

Mở đầu phiên họp, Cảnh phát biểu:

- Hiện nay, Tổng Bộ TNVNCMĐCH đã giải tán để thay thế bằng Đông Dương Cộng Sản Đảng. Đất Quãng Châu đã bị Tưởng Giới Thạch hoàn toàn khống chế, làm gì còn chỗ đứng cho ta nữa mà đưa người của ta sang bên ấy! Chả nhẽ Xứ Ủy Bắc Kỳ không biết điều này hay sao mà lại bảo chúng ta gửi hai chị Như, Uyển sang Quảng Châu giao cho Tổng Bộ TNVNCMĐCH? Chủ trương như thế thì thật quá mơ hồ! Tổng Bộ Thanh Niên không còn, mà đất Quảng Châu cũng không còn. Gửi người sang đấy thế nào được!

Hai ba đồng chí cùng góp ý chê trách Xứ Ủy Bắc Kỳ ngây thơ. Nói chung,nhóm Cộng Sản tiền phong này vẫn đang ấm ức vì nhiều đoàn viên TNCMĐCH vẫn cứ muốn bám lấy cái tên hiện tại mà không chịu đổi thành Đông Dương Cộng Sản. Nguyễn Đức Cảnh nói:

- Như thế thì bây giờ mình phải làm gì? Ngày mai hai chị ấy xuống đến nơi rồi! Gửi người trả lại cho Xứ Ủy hay sao?

Đổ Ngọc Du đề nghị thẳng:

- Hai chị Như, Uyển đã gặp mật thám Pháp, biết họ thỏa thuận với Pháp những gì? Hai chị ấy lại nhận lời đi gặp Quốc Dân Đảng để kêu gọi Nguyễn Thái Học về hàng Pháp. Như thế thì cái ý phản bội đã có trong lòng rồi. Xứ Ủy chắc cũng biết như thế, nhưng ngại xử lý nên giao cho Tỉnh Bộ chúng ta. Các đồng chí thử nghĩ mà xem: Để hai đồng chí ấy trong nước thì sớm muộn gì chúng ta cũng sẽ mang họa bởi hai chị ấy biết rõ hầu hết các yếu nhân của Đảng. Mà đưa hai chị ấy sang Hồng Kông cũng không được, nếu xẩy ra chuyện gì bên ấy thì Tổng Bộ sẽ khiển trách chúng ta. Chi bằng thủ tiêu quách đi cho xong!

Cả phòng họp cùng yên lặng. Rồi một nữ đồng chí dè dặt phát biểu:

- Tôi biết hai chị em cô ấy từng đóng góp nhiều cho đoàn thể, lại chưa có lỗi lầm gì cụ thể mà ta thủ tiêu thì có …. nên xét lại không? Chúng ta làm cách mạng đánh Tây. Chưa đánh được thằng Tây nào, đã giết người của mình thì có quá đáng không?

Quốc Anh đáp:

- Vì đảng mà làm thì chả có gì để gọi là quá đáng! Trong phòng họp này có ai thù oán gì với hai chị em cô ấy đâu! Chẳng qua là vì tiền đồ của đảng mà thôi! Mai kia nước nhà độc lập thì co tên hai chị ấy gắn trên một cái biển phố để ghi công là được chứ gì!

Đỗ Ngọc Du phân tích thêm:

- Tôi chắc Xứ Ủy cũng muốn thủ tiêu hai chị ấy, nhưng còn e ngại, giống như ngày xưa Tào Tháo muốn giết Nễ Hành là một dan sĩ được nhiều người nễ phục. Tào Tháo mới cho đi sứ gặp Lưu Biểu để mượn tay Lưu Biểu giết đi. Lưu Biểu biết thâm ý của Tào Tháo nên không giết Nễ Hành mà lại sai Nễ Hành đi gặp Hoàng Tổ. Kết quả là Nễ Hành bị Hoàng Tổ giết! Tình thế hôm nay cũng vậy. Xứ Ủy muốn giết hai đồng chí Như, Uyển, nhưng mượn tay chúng ta. Chúng ta biết thế nhưng phải giết để tránh hậu họa!

Phòng họp lại yên lặng. Nhiều người muốn bênh vực cho hai cô Như, Uyển, nhưng thấy nhóm Hồng Kông hung hăng quá, họ đành làm ngơ mặc dầu trong lòng rất bức rứt. Nguyễn đức Cảnh kết luận:

- Chúng ta không có nhiều thì giờ. Ngày mai ai chị ấy xuống đến nơi rồi. Thôi thì đành vậy. Để bảo toàn lực lượng, nên thủ tiêu hai chị em Trịnh Thị Như và Trịnh Thị Uyển. Thay mặt tỉnh đảng bộ, tôi giao việc này cho đồng chí Hồ Ngọc Lân thi hành. Phòng họp hôm nay có tất cả chín người. Tất cả đều phải giữ tuyệt mật. Sau khi hai chị em Uyển và Như bị ám sát, tất nhiên ta sẽ phao tin là Quốc Dân Đảng thanh toán vì hai chị ấy nhận lời mật thám Pháp dụ dỗ Nguyễn Thái Học về đầu thú!

Hội nghị giải tán trong không khí nặng nề, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ khác nhau nhưng không ai dám nói với ai vì sợ kỷ luật sắt máu của đảng.

Tối hôm sau, như đã hẹn trước, đúng 7 giờ 32 tối, hai cô Như, Uyển đến trước trường học Trí Tri, ở đó sẽ có người đợi sẳn để đưa hai cô ra mắt Tỉnh Bộ. Trong bóng tối mờ mờ tại khu vực vắng vẻ và xa lạ, hai chị em Trịnh Thị Như và Trịnh Thị Uyển đang ngơ ngác nhìn quanh thì một bóng ngừơi xuất hiện. Hai cô hồi hộp mừng rỡ, nhưng chưa kịp cất tiếng hỏi thì người ấy đã giơ súng bắn thẳng vào Ngực Uyển, cô ngã gục xuống và chết ngay. Cô Như hoảng hốt bỏ chạy thì một viên đạn bắn theo, nhưng chỉ trúng vào bắp chân làm cô kêu thét lên rồi quỵ xuống. Cô chưa chết, nhưng rõ ràng kẻ sát nhân không muốn giết cô, chỉ bỏ cô nằm đó và tẩu thoát trong bóng đêm. Vừa đau đớn, vừa hoảng sợ, Như tự hỏi: Kẻ sát nhân là mật thám Pháp hay Quốc Dân Đảng? Không bao giờ trong đầu cô mảy may có ý ngờ vực rằng chính những đồng chí cộng sản của cô lại nhẫn tâm giết hai chị em cô vì một nguyên cớ rất mơ hồ! Chị em cô cam lòng thoát ly gia đình, từ giã xóm làng thân yêu để dấn thân trên bước đường thiên lý đầy chông gai, chẳng lẻ lại bị chính những đồng chí của mình hạ thủ! Cô rên rỉ lết lại ôm xác cô em gái rồi khóc tấm tức trong bóng đêm dày đặc.

Sau vụ án mạng, mật thám cho bắt Mai Ngọc Thiệu, người đứng đầu Bắc Việt Kỳ Bộ. Bởi từ lâu, sở Liêm Phóng vẫn theo dõi Mai Ngọc Thiệu và biết rõ ai cô Như Uyển là đồng chí đàn em thân tín của Thiệu. Huống chi từ khi trao công tác cho hai cô, đương nhiên mật thám Pháp bám theo rất sát để chờ kết quả của lá thư gửi cho Nguyễn Thái Học. Nay chuyện chưa tới đâu thì hai cô bị bắn, sở Liêm Phóng tức giận vì kế hoạch dụ hàng Nguyễn Thái Học bị hỏng. Chúng đoán là Mai Ngọc Thiệu có dính dáng đến việc này nên lôi ông về khai thác. Thiệu xác nhận không hề biết chút gì về vụ ám sát này. Mật thám Pháp liền tóm luôn mấy đồng chí ở Tỉnh Bộ Hải Phòng vì vụ án xẩy ra ngay tại thành phố này. Chỉ có đều éo le là mấy nhân vật chủ chốt đề nghị thủ tiêu hai chị em Như Uyển như Quốc anh và Ngọc Du thì lại thóat mẻ lưới đợt này của Pháp.

Vụ ám sát chị em Như Uyển cùng với bản tin Mai Ngọc Thiệu và mấy đồng chí ở Tỉnh Bộ Hải Phòng bị bắt làm Thành Bộ Hà Nội hết sức lo ngại. Riêng Lê Tiến thì chẳng những lo mà còn buồn nữa bởi Tiến vốn là chỗ quen biết với Trịnh Đình Chiêm, từng tiếp xúc với hai cô em gái của Chiêm là Như và Uyển khá nhiều lần. Trên đường công tác mấy năm nay, Lê Tiên đôi khi cũng gặp hai chị em nhà họ Trịnh và vẫn cảm phục họ hết lòng với đoàn thể. Nay nghe tin họ bị giết, lòng Tiến vô cùng hoang mang và thương tiếc. Thủ phạm đầu tiên mà Lê Tiến nghĩ đến là mật thám. Nhưng suy đi nghĩ lại thì Lê Tiến gạt bỏ giả thuyết ấy, bởi việc gì Pháp phải giết? Pháp chỉ muốn bắt về tra tấn để khai thác hầu tìm ra nguyên hệ thống chống đối chứ bắn bỏ hai cô gái ấy thì có lợi gì đâu! Cả tháng trời Lê Tiến cứ giằng co nghĩ ngợi mà chẳng đưa ra được kết luận nào. Mãi đến tuần vừa rồi, Tiến có việc phải đi Hải Phòng để đưa một đảng viên mới thoát ly, xuống làm công tác vô sản hóa trong giới phu khuân vác ở bến cảng. Nhân tiện Tiến ghé thăm người em con ông chú ruột, có chân trong đảng ủy Tỉnh bộ Hải Phòng và cũng là người có mặt trong phiên họp quyết định thủ tiêu hai cô gái họ Trịnh. Thấy Tiến có vẻ bứt rứt và thương tiếc hai chị em bị nạn, thằng em họ mới kể đầu đuôi cho Tiến nghe về nghị quyết của đảng bộ Hải Phòng. Tiến lặng người như bước hụt chân xuống hố sâu. Làm cách mạng thì phải triệt để: Đã đành là thế, nhưng triệt để với kẻ thù chứ sao lại hãm hại đồng chí khi chưa nắm được dấu hiệu gì làm bằng chứng hai cô ấy sẽ phản bội Đảng!

Lê Tiến trở lại Hà Nội với nỗi bâng khuâng có nhen nhúm chút bất mãn. Tuy vậy, anh chẳng dám tiết lộ với ai, kể cả những đồng chí thân thiết nhất trong ban chấp hành Thàn Bộ.

Đầu tháng 7, hội đồng đề hình xét xử Việt Nam Quốc Dân Đảng. Hơn 200 đảng viên bị bắt, nhưng ra tòa lãnh án chỉ có 78 nhân vật quan trọng. Sở dĩ như vậy là vì sau khi René Bazin bị giết, dư luận dân chúng Pháp tại mẫu quốc trở nên sôi động bất ngờ. Báo chí tiến bộ Pháp cố tình thổi phồng các lực lượng chống đối, khiến chính phủ đâm ra lo ngại và nặng lời khiển trách guồng máy cai trị tại Đông Dương. Toàn quyền Pasquier cùng trùm mật thám Louis Marty phải tự hạ thấp số người chống đối để cứng tỏ Quốc Dân Đảng không phải là mối đe dọa đáng lo ngại cho chính quyền Pháp. Nhờ vậy mà có đến gần 150 người được trả tự do.

Những lời khai khảng khái tại tòa cùng với thái độ dõng dạc của lớp tù nhân Quốc Dân Đảng trước mặt bọn thực dân, đã khiến cho bao nhiêu người chứng kiến phải rơi lệ. Thậm chí có những chiến sĩ dám chửi thẳng vào mặt bạo quyền xâm lăng, chẳng những gây kin ngạc và tạo sự cảm phục sâu xa đối với một số nhà báo tiến bộ của Pháp, mà ngay cả phía đảng viên cộng sản như Lê Tiến cũng hết sức nghiêng mình.

Chính vì sự phản ứng bất lợi của quần chúng và nhất là giới truyên thông, 78 can phạm chỉ được xét xử cấp tốc trong vòng chưa đầy hai ngày. Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu cũng bị tuyên án khuyết tịch trong dịp này.

Mai Ngọc Thiệu và mấy đồng chí cộng sản ở Hải Phòng bị bắt sau vụ ám sát Như, Uyển, cũng bị đem ra xử chung với Quốc Dân Đảng. Nhưng may là Thiệu chỉ bị lãnh án 5 năm cấm cố, đưa lên giam ở vùng thượng du Bắc Việt.

Trong nỗi thấp thỏm từng ngày, hôm nay Lê Tiến ghé thăm Hậu giữa lúc đầu óc đang muốn quên câu chuyện bi thảm của hai nữ đồng chí phủ Lạng Thương thì không ngờ Hậu vô tình khơi dậy. Tiến ngồi đờ người một lúc rồi mới dè dặt đáp:

- Nói chung thì bên Quốc Dân Đảng có những biểu hiện sốt ruột, muốn đốt giai đoạn, thành ra không tránh được sơ hở!

Hậu chớp mắt nói:

- Nghe bảo vụ xử án vừa rồi có cả người của ta?

Lê Tiến gật đầu:

- Vâng. Có vài người của ta bị xử chung với Quốc Dân Đảng! Thằng Tây thì nó đâu có phân biệt nhóm nào, phe nào! Hễ cứ chống nó là nó bắt thôi!

Lê Tiến không muốn đi sâu vào chi tiết bởi có những điều mà Hậu không được quyền biết. Gã uống cạn cốc nước rồi đứng dậy cáo từ, làm bộ nói phải đi công tác. Trước khi tiển Lê Tiến ra cửa, Hậu hạ giọng hỏi thêm:

- Anh có thể xin Thành Bộ cho tôi một khẩu súng lục, được không anh Tiến?

Tiến nhìn Hậu hơi ngạc nhiên, hỏi lại:

- Chị xin súng làm gì?

Hậu mạnh dạn nói ngay:

- Tôi nghĩ, gặp mật thám, thà tôi bắn nó, nó bắn tôi. Tôi giết được một thằng Tây rồi tôi có chết cũng cam. Còn hơn để nó bắt vào tù tra tấn!

Lê Tiến lắc đầu:

- Chị giết một thằng Tây, rồi thằng Tây giết lại chị. Nếu đơn giản như thế thì tốt quá! Nhưng thực tế có như thế đâu! Chỉ có mỗi thằng Bazin bị bắn chết mà Quốc Dân Đảng bị bắt bao nhiêu người? Xưa kia Quang Phục hội của cụ Phan Bội Châu cũng chủ trương bạo động lẻ tẻ. Nhưng cứ mỗi thằng Tây chết thì hàng trăm người Việt mình điêu đứng! Toàn quyền Merlin bị ám sát hụt cũng thế, bao nhiêu người yêu nước của ta chết gục trong tù. Thành ra việc dùng súng không có lợi tí nào cả!

Hậu thở dài nhìn ra sân. Lê Tiến chào Hậu lần nữa. Hậu mới đứng dậy bước ra trước theo thói quen. Cô quan sát kỷ lưỡng hai bên con hẻm rồi mới gật đầu bảo Lê Tiến vén mành chui ra.

Ra đến ngã ba, Lê Tiến đứng trước hiệu Lò Rèn, cẩn thận đảo mắt nhìn quanh tứ phía rồi mới thả bộ theo đường lớn. Nắng trưa mỗi lúc một gắt hơn làm mồ hôi Tiến thấm nhanh qua lớp áo mỏng. Trông qua bên kia, ở cái quán lá xác xơ quanh năm hứng bụi đường. Lê Tiến thấy Mão đang ngồi bóc bánh gai bên cái điếu cày và bát nước chè tươi. Tiến vội cúi đầu rảo bước để tránh cho Mão khỏi ngượng khi nhìn thấy Tiến.

Ba hôm sau, Lê Tiến cho người đến gọi Thông. Anh ra đi lúc trời tờ mờ sáng khi cả nhà còn đang yên giấc mà Thông thì chẳng muốn đánh thức ai dậy để phải bịn rịn chia tay. Cả tiếng đồng hồ sau, Hậu thức dậy khi ngoài đường lanh lảnh vang lên những tiếng rao “bánh Tây”, tức là bánh mì baguette, như thường lệ. Cô xuống bến nhóm lửa hâm nồi cháo để Kiệt ăn đi làm. Lúc bưng lên nhà thì mới biết Thông đã giả từ. Cô thở dài buồn bả vì biết từ nay sẽ mất đi một người thân tính tình thật điềm đạm. Cô thóang tự hỏi tại sao Thành Bộ không đẩy Mão đi giùm cô!

Hậu đặt nồi cháo lên trên bàn, định ra sân sau rửa mặt và vấn tóc. Nhưng quay lại thì thấy Kiệt ngồi ở mép giường thòng một chân xuống đất, tay cầm lọ dầu đưa lên mũi hít hít mấy cái. Hậu ân cần hỏi:

- Hôm nay anh có định đi làm không? Hình như anh bị cảm đấy? Mệt thì nghỉ ở nhà một hôm!

Kiệt cười buồn:

- Có việc gì đâu mà làm! Nhưng tôi cứ ra ngồi ở ngã tư phố, ai thuê thì làm! Tuần vừa rồi có người gọi trộn hồ xây nhà, làm được ba hôm, cũng đở khổ. Thôi thì cứ tạm vậy. Chắc tôi cũng chả ở đây lâu đâu. Anh Lê Tiến bảo thế!

Hậu nhắc lại:

- Nhưng mà anh ốm phải không?

Kiệt uể oải đáp:

- Tại anh Thông đi, thấy hơi buồn buồn! Buồn thôi chớ có ốm đau gì đâu!

Giọng Hậu tha thíêt:

- Nhà còn ít đỗ đen. Hay là hôm nay chả có việc gì thì anh ở nhà, tôi nấu chè đỗ đen đãi anh!

Ngừng một chút Hậu tiếp:

- À! Cái áo của anh, tôi vá rồi đấy. Tiện tay tôi giặt luôn. Phơi sau nhà, chả biết nó khô chưa!

Kiệt nói:

- Cảm ơn chị! Nhưng chị dầm sương cả đêm thì dù có khô nó cũng thành ướt! Thôi, cứ treo ngoài ấy đến trưa, chắc là phải khô! Tôi mặc tạm cái này đi làm cũng được!

Đứng bên trong tấm cót, Mão thấy buồn vời vợi. Thông đi rồi, chỉ còn Kiệt và Mão, hai thằng đàn ông bên cạnh Hậu, mà rõ ràng Hậu lại dành quá nhiều chăm sóc cho Kiệt. Nhịn không được, Mão bước ra và sẵng giọng phê bình Hậu:

- Anh Kiệt muốn đi làm thì để cho anh ấy đi làm, sao chị lại giữ anh ấy ở nhà! Ăn chè thì ngày nào ăn chả được! Đi làm là một chuyện, nhưng chủ yếu là công tác vô sản hóa mà Thành Bộ giao cho anh ấy. Muốn vô sản hóa thì phải tạo điều kiện tiếp xúc gần gũi với anh chị em công nhân và nhân dân lao động để tuyên truyền giáo dục họ! Đây là nhiệm vụ của cách mạng chứ đâu phải chuyện đùa đâu mà chị cứ níu chân anh ấy ở nhà

Hậu tròn mắt ngơ ngác nhìn Mão. Không nhẽ Mão quên rằng Kiệt đang là bí thư chi bộ, đâu cần Mão giảng bài chính trị? Hay là Mão muốn biểu hiện kiến thức cách mạng của mình vì biết Kiệt ít có cơ hội đọc sách bằng Mão? Kiệt thì không ngạc nhiên. Anh hiểu tâm sự của Mão, anh ôn tồn bảo:

- Anh Mão nói đúng đấy chị Quyết ạ. Ăn chè thì lúc nào ăn chả được! Chị cứ nấu sẳn đi, tối về tôi xin chị một bát!

Mão ngồi xuống ghế vênh mặt nhìn Hậu. Nhưng Kiệt nói luôn bằng giọng chỉ thị:

- Hôm nay anh Mão chịu khó chạy đi mua cái tủ đứng cũ, mang về đóng thêm một lớp đáy. Ngăn ngoài mình để quần áo, ngăn trong giấu truyền đơn. Cái hố đào ở chân giường bé quá, không đủ chứa đâu. Mà cái hố ngoài sân bất đắc dĩ mình mới phải dùng đến. Nay mai phải in nhiều truyền đơn lắm, vì phải cung cấp cho cả thành phố!

Nói xong, Kiệt moi túi lấy ra một ít tiền trao cho Mão rồi đứng dậy:

- Anh cầm tạm. Tôi chỉ có thế này thôi. Trộn hồ ba hôm cho người ta. Thiếu thì chị Quyết đưa thêm! Thôi, tôi đi làm đây. Nắng lên to bây giờ!

Kiệt cầm cái nón vải đứng dậy, lòng thấy nao nao buồn. Anh biết Mão đang say đắm Hậu. Chuyện ấy cũng tự nhiên thôi, bởi Hậu là người dễ mến. Cái khó xử của anh là chính anh cũng đang yêu Hậu. Chi bộ chỉ có ba người mà anh là bí thư. Muốn phát triển chi bộ, muốn chi bộ làm tốt mọi công tác thì anh phải giải quyết mọi chuyện riêng tư của chi bộ. Giả như Hậu đáp lại tình yêu của Mão, thì anh sẽ sẳn sàng nhường ngay, vun xới cho hai người thành vợ chồng. Ngày kết nạp, anh đã từng giơ tay tuyên thệ là lúc nào cũng chỉ biết có đảng là trên hết. Cá nhân anh phải vì đảng mà hy sinh mọi quyền lợi riêng tư. Nhưng rõ ràng là Hậu không có cảm tình với Mão vì Hậu đã nghiêng hẳn về phía Kiệt. Đó là điều khó xử nhất mà anh phải đương đầu từ mấy hôm nay với tư cách bí thư chi bộ.

Kiệt đang phân vân suy nghĩ thì Hậu nói:

- Hôm nay anh đi làm ở đâu?

Kiệt cầm cái nón vải, nhắc lại:

- Thì ra ngã tư phố ngồi chờ người ta gọi. Đến trưa mà không có việc gì thì tôi ra ga xe hỏa. Tuần trước tôi có làm quen được mấy người phu hỏa xa!

Kiệt chụp cái mũ lên đầu và hỏi Mão:

- Đi luôn không, anh Mão? Đi sớm cho đỡ nắng! Nhớ tìm cái tủ sâu sâu một tí, mình mới đóng hai lớp đáy được! Nhưng mà tìm cái nào rẽ nhất, cũ nhất, hẵng mua!

Mão gật đầu đáp:

- Vâng, tôi nhớ rồi. Anh cứ đi trước đi. Để tôi dọn dẹp trong kia đã. Rồi tôi rủ chị Quyết đi luôn thể!

Hậu buột miệng nói:

- Tôi ở nhà chứ đi làm gì?

Mão nhìn Hậu bực bội, nhưng Kiệt lên tiếng ngay:

- Chị Quyết nên ở nhà. Nói đúng ra thì lúc nào mình cũng cần có người ở nhà. Nhỡ trên Thành có chỉ thị gì đột xuất!

Hậu nhìn Kiệt thầm cám ơn và nói:

- Đúng rồi! Anh Lê Tiến cứ dặn mãi là đi đâu cũng phải để một người trông nhà!

Mão hầm hầm đứng dậy ra sau bếp. Gã biết đây là cái cớ mà Hậu và Kiệt nêu ra để Hậu khỏi phải ra phố chung với Mão. Mão ra sân, múc nước xúc miệng rửa mặt. Lúc gã lên nhà thì Kiệt đã ra khỏi ngõ hẻm.

Gần trưa, Hậu đi chợ về, ngạc nhiên thấy Kiệt đã có mặt ở nhà. Cô vui hẳn lên vì sự hiện diện của Kiệt vào giờ này là một điều hiếm hoi, hình như chưa xảy ra bao giờ. Sáng đi tối về. Đó là thời khắc biểu thường nhật của Kiệt từ ngày Hậu đến đây. Hôm nay Kiệt phá lệ về nhà bất ngờ làm Hậu thấy không khí trong nhà đổi khác, nhất là Mão đi mua tủ chưa về, ở nhà chỉ có hai người. Hậu buông cái làn mây chỉ có bó rau cải xuống chân, tròn mắt hỏi Kiệt:

- Ô hay! Anh không đi làm ư?

Kiệt ngồi trên giường tựa lưng vào vách, gượng cười đáp:

- Tôi ra đến ngã tư Phố, ngồi chờ một chốc tự dưng thấy xây xẩm mặt mũi. Đành về vậy! Sáng mai khỏe thì lại đi!

Hậu ân cần nói:

- Tôi đã bảo mà! Sáng nay nom mặt aanh, tôi biết ngay là anh bị ốm! Thôi! Cứ nghỉ đi. Ra ngoài ấy ngồi hóng gió cũng thế thôi!

Rồi cô nhìn Kiệt bảo:

- Để tôi chạy sang bà Vỵ, xin lá trầu không về đánh gió cho anh!

Kiệt cảm động cúi xuống không nói gì. Bệnh của anh không nặng đến độ cần phải đánh gió. Anh chỉ bị cảm xoàng vì lẽ mấy hôm trước dầm mưa cả nữa ngày. Thái độ chăm sóc của Hậu khiến anh thấy lòng mình chan hòa hạnh phúc. Hai mươi lăm tuổi, anh chưa một lần biết đến tình yêu. Thuở còn mang gạch cho ông bá hộ trong làng, các cô gái quê vây quanh khá đông, tháng ngày lao động bên nhau, nhiều cô bị lôi cuốn mạnh mê bởi những câu chuyện đầy chất hài hước của Kiệt rồi từ đó đem lòng thầm lặng mến yêu anh. Nhưng Kiệt lại nhìn lên quá cao, mê con gái ông chủ, như thằng bán than mơ cưới công chúa. Nhưng ai cấm Kiệt thầm yêu trộm nhớ! Ngày ngày vào lò gạch, mồ hôi lúc nào cũng loang loáng chảy từ trán xuống vai, bụi than lúc nào cũng phủ từ đầu đến chân, nhưng Kiệt không biết mệt, không ngừng tay. Niềm vui sâu kín của anh là chờ khi mặt trời đứng bóng, được nhìn con gái ông phú hộ cùng người nhà gánh cơm ra lò gạch cho mấy chục người thợ ăn trưa. Vừa ăn, Kiệt vừa len lén nhìn trộm cô chủ trên dốc cao vời vợi. Cô về rồi thì Kiệt lại chui vào lò gạch hùn hục làm cho đến tối. Tính ra, mỗi ngày Kiệt được một niềm vui kéo dài nữa tiếng.

Kiệt làm ở đó được bốn năm, lên chức cai, có quyền chỉ tay năm ngón và ngồi hút thuốc lào nhiều hơn. Nhưng bản tánh Kiệt tham việc, ít khi chịu ngừng tay. Một hôm có anh thợ mới đến khúm núm xin việc. Kiệt chỉ đường rồi bảo anh ta vào thẳng nhà ông bá hộ mà ngỏ lời chứ Kiệt không có quyền. Hôm sau, quả nhiên con gái ông bá hộ dẫn anh thợ mới ra lò gạch và bảo Kiệt:

- Anh Kiệt! Bố tôi bảo giao ông này cho anh! Tùy công việc mà cắt đặt! Miễn đừng để ông ấy ngồi chơi!

Kiệt hân hoan nhận lệnh, vui vẻ đáp:

- Cô về thưa lại với hai cụ là xin hai cụ cứ yên trí. Tôi không để ai ngồi chơi đâu!

Người công nhân mới ấy tên là Phẩm, tuổi tác cũng khoảng trang lứa với Kiệt nhưng thân thể gầy hơn một chút. Phẩm rất chăm chỉ, cư xử hòa nhã với mọi người và thậm chí lâu lâu còn nhường cả phần ăn cho người khác. Ai nói gì Phẩm cũng chỉ cười. Thấy ai yếu sức, Phẩm tự nguyện làm thêm phần của người ấy. Tác phong lao động ấy làm Kiệt có cảm tình ngay và nhanh chóng dành sự chiếu cố đặc biệt cho Phẩm. Hai tháng sau, khi hai ngừơi đã khá thân nhau, Phẩm mới bắt đầu tuyên truyền cách mạng trong hàng ngũ công nhân lò gạch, đặc biệt là anh cai Kiệt. Phẩm mến Kiệt ở chỗ tuy là chân cai, nhưng Kiệt không hách dịch chửi mắng nhân viên dưới quyền. Đây chính là một đối tượng lý tưởng mà Phẩm cần thuyết phục và Phẩm đã thành công. Giặc Pháp và nhà giàu là kẻ thù của Phẩm. Ý niệm ấy dần dần lan qua tâm trí Kiệt. Sau cùng, khi Kiệt đã thấm nhuần, Phẩm mới cho Kiệt biết mình là đảng viên VNTNCMĐCH. Nữa năm sau, Kiệt được kết nạp vào một ngày cuối đông. Tổng bộ yêu cầu Kiệt thoát ly xuống Hà Nội, giã từ cái lò gạch và cô con gái xinh đẹp của chủ lò!

Nhiệt tình cách mạng thì có thừa mà tình cảm riêng tư thì lúc nào cũng thiếu vắng. Cho nên mấy tháng nay gần gũi Hậu, Kiệt bổng thấy lòng mình rung động nhẹ nhàng. Đoàn thể chắc hẳn không ngăn cản vì cả hai cùng độc thân và cùng lý tưởng. Hậu tất nhiên không đẹp bằng con gái ông chủ lò gạch, nhưng Hậu xuất thân nhà nghèo, quanh năm chân lấm tay bùn, tức là đi sát với lập trường của đảng. Kiệt mừng rỡ vì giữa ba thằng đàn ông chung một mái nhà, Kiệt lọt vào trái tim Hậu một cách dễ dàng, nghĩa là ít nhất Kiệt cũng đã thắng được đồng chí Mão!

Hậu từ bên nhà bà Vỵ tất tả chạy về với hai lá trầu không đã hơ lửa sẳn. Kiệt ngồi ở góc giường, tựa lưng vào vách. Bàn tay phải Hậu cầm lá trầu chà mạnh vào trán và hai bên thái dương Kiệt. Bàn tay trái thì bấu lấy vai Kiệt như muốn giữ ngừơi anh cho vững chắc khi đánh gió. Kiệt xúc động nhắm mắt lại. Chưa bao giờ anh ngồi gần một người đàn bà đến thế. Người anh nóng lên hừng hực, không biết vì chất nóng của lá trầu hay vì hơi ấm của Hậu truyền qua. Hậu cũng thế. Hai mươi mốt tuổi, chưa bao giờ bàn tay cô đụng vào ngừơi đàn ông. Giả như Kiệt không bị cảm, thì chẳng biết đến bao giờ cô mới có cơ hội để bày tỏ sự săn sóc ân cần như thế này. Hậu dịu dàng bảo:

- Chả mấy khi có dịp trao đổi riêng với anh. Không nói anh cũng biết, anh Mão dạo này đối với tôi không còn giống như hồi trước …….

Kiệt vẫn nhắm mắt, ngắt lời Hậu:

- Tôi biết! Nói trắng ra là anh ấy phải lòng chị! Nhưng ý chị thế nào?

Hậu chép miệng:

- Anh lại còn phải hỏi tôi câu ấy! Tôi có để ý gì đến anh ấy đâu. Chẳng qua là vì nhiệm vụ cách mạng, anh Lê Tiến bảo tôi nhận anh ấy là chồng để che mắt thế gian thì tôi phải chấp hành thôi! Nhưng anh Mão thì lại khác. Anh ấy muốn làm chồng tôi thật! Tôi không bằng lòng thái độ của anh Mão tí nào! Anh bây giờ là bí thư chi bộ, nhờ anh nói lại với anh ấy hộ tôi vì tôi nói không tiện!

Kiệt ngẫm nghĩ một chút rồi đáp:

- Tôi nói lại càng không tiện! Anh Mão sẽ cho rằng tôi ngăn cản anh ấy chỉ vì tôi … có tình ý với chị!

Sau lời thố lộ minh bạch đó, cả hai cùng yên lặng vì cùng nhìn thấu tâm tư của nhau. Hậu nao nao xúc động, bàn tay đang đặt trên vai Kiệt, bấu xuống mạnh hơn. Kiệt cũng thế, trút được bầu tâm sự và biết Hậu cũng đang nặng tình với mình, anh thấy lòng lâng lâng bay bổng một cách sảng khoái. Tương lai chẳng biết ra sao, nhưng hiện tại được sống bên Hậu là một hạnh phúc lớn. Anh đưa bàn tay nắm lấy bàn tay Hậu. Hậu để mặc cho trái tim rung động rộn rã. Cô thấy Kiệt nói đúng. Cách duy nhất có thể giải quyết được tìn trạng này là đề nghị Thành Bộ, hoặc bố trí Mão đi công tác nơi khác, hoặc chính Hậu và Kiệt phải chia tay Mão. Kiệt như đọc được ý nghĩ của Hậu, nhẹ nhàng khuyên:

- Chịu khó nhịn một thời gian nữa. Chắc chả lâu đâu! Nay mai mỗi người sẽ mỗi nơi!

Từ bên hàng xóm, bà Vỵ vừa moi trong cái giỏ cói đựng kim chỉ, một gói thuốc bột mua ở nhà thuốc Đông Sơn, trị bệnh cảm sốt. Bà hân hoan cầm sang cho Hậu. Cửa nhà Hậu không bao giờ đóng kín vì muốn chứng tỏ bên trong không có làm gì mờ ám. Bức mành làm bằng nan tre luôn luôn buông trùng xuống gần sát đất. Bà Vỵ vừa vén vừa gọi:

- Cô Mão ơi! Có thuốc cảm cho chú ấy đây này ….

Bà bổng đứng khựng lại, buông bức mành xuống và vội vã quay ra. Hậu định chạy theo nhưng lại thôi. Cô hoàn toàn ngay tình, không nhớ ra là mình có chồng là Mão! Việc cô chữa bệnh cho một đồng chí là chuyện tự nhiên, chả có gì sai trái.

Bà Vỵ về nhà vẩn vơ suy nghĩ. Cảnh tượng vừa diễn ra trước mắt bà làm bà thấy có cái gì không ổn. Rõ ràng Hậu đã cho bà biết Hậu là vợ Mão, và chính bà cũng tưởng Mão bị cảm, nên Hậu mới sang xin trầu khhông về đánh gió! Còn bà vì có cảm tình với Mão mới cầm thuốc bột chạy sang! Sao Hậu lại dám ngang nhiên đánh gió cho Kiệt? Chỉ trừ trường hợp Kiệt là người bà con của Hậu – chẳng hạn như anh ruột – thì Hậu mới được phép làm như thế. Nhưng Hậu đã nhiều lần xác định với bà là Thông và Kiệt chỉ là hai người ở trọ ăn cơm tháng, chứ có liên hệ hhọ hàng gì đâu! Thời này, lễ giáo nghiêm nhặt lắm, đàn bà ngoại tình là chuyện quá hiếm hoi. Ở nhiều vùng thôn quê thiên hạ vẫn còn giữ nguyên cái hình phạt đóng bè chuối thả trôi sông những người đàn bà có chồng rồi mà còn sa ngã. Xưa kia, một người phụ nữ dù có ốm nặng đến đâu, ông thầy thuốc cũng phải ngồi bên ngoài bức màn mà hỏi bệnh chứ không được cầm tay bắt mạch, bởi người đàn bà cho người khác cầm tay là coi như thất tiết rồi! Sự thân mật quá đáng của Hậu và “người ăn cơm tháng” làm bà thắc mắc và bỗng thấy thương cho Mão. Bà vào nhà, bỏ gói thuốc bột vào lại chỗ cũ rồi thơ thẩn bước ra ngoài. Đứa con út đang ngủ say trên võng, bà thả bộ ra đầu ngõ. Bà đứng trầm ngâm một lúc, toan quay vào thì thấy Mão từ bên kia đường băng sang, mồ hôi ướt đầm đìa trên mặt và vai áo. Trong ba người đàn ông ở kế nhà bà thì bà thân với Mão nhất, lý do giản dị vì Mão ở nhà thường xuyên, ngày nào vào ra cũng trông thấy nhau. Còn Thông và Kiệt thì chỉ chiều tối mới về, bà ít khi có dịp gặp mặt để nói chuyện. Sáng nay, Mão đi hỏi mua tủ theo chỉ thị của Kịêt, nhưng chưa tìm được cái nào vừa ý, nghĩa là vừa rẻ vừa có chiều sâu để đóng hai lớp đáy. Mão định về bàn với Kiệt là mua gỗ tự đóng lấy có khi tiết kịêm được chút ít mà đúng ý mình hơn.

Thấy Mão xăm xăm bước vào con hẽm, bà Vỵ ngăn lại hồi hộp hỏi:

- Chú Mão đi đâu về vậy?

Mão đứng lại, đưa tay lên quệt mồ hôi trên trán. Với tất cả hàng xóm, Mão luôn luôn tỏ ra thân mật theo đúng lời dặn của Lê Tiến, mặc dù có những người Mão không ưa. Mão cười đáp lại:

- Tôi ra chợ, định mua thêm ít giấy bản để in tiền âm phủ. Nhưng hôm nay giấy hiếm, giá cao quá, đành để hôm khác vậy! Bà đi đâu đấy?

- Có đi đâu đâu! Cháu nó ngủ, tôi ra đứng hóng gió mát một tí. Trong nhà nóng quá!

- Vâng! Trời bức thế này thì không khéo mưa mất! Cả tuần nay không mưa!

Mão toan bước đi thì bà chặn lại:

- Chú Mão ơi! Tôi hỏi cái này không phải, chú bỏ qua cho! Nhưng mà chú Kiệt là gì của chú?

Mão ngay tình lắc đầu:

- Không! Có gì đâu. Anh ấy ở trọ ăn cơm tháng!

Mão không trả lời khác được vì đã nhiều lần nói với mọi người nưh thế. Bà Vỵ lại tiếp:

- Thế mà tôi cứ tưởng chú Kiệt là anh vợ chú!

Mão lắc đầu cười phân trần:

- Không! Có họ hàng gì đâu! Dạo trước, ba đứa chúng tôi làm chung một chỗ. Bà còn nhớ anh Thông chứ? Vâng, tôi với anh Kiệt và Thông cùng làm một chỗ rồi quen thân nhau. Thành thử từ lúc vợ tôi từ dưới quê lên thì nấu cơm tháng cho Kiệt và Thông ăn luôn. Bây giờ Thông nó đi làm chỗ khác rồi thì chỉ còn mình Kiệt ở lại với vợ chồng tôi! Chắc chả lâu đâu. Nó cũng đang nhờ người xin việc dưới Hải Phòng!

Mão đắc ý với lời giải thích của mình vì gã biết Kiệt cũng sắp ra đi như Lê Tiến đã nói. Nhưng bà Vỵ nhìn gã tội nghiệp và hững hờ nói:

- Thế à! Thế mà tôi cứ tưởng …..

Thấy thái độ khác lạ của bà Mão nhíu mày lo lắng. Mão tự hỏi: Hay là bà đã bị mật thám mua chuộc để dò la tin tức về Mão và các đồng chí? Mão nhìn bà, lên tiếng:

- Bà cứ tưởng làm sao? Hôm nay sao bà hỏi kỹ thế? Có việc gì thế hở bà?

Bà Vỵ vội xua tay đáp:

- Không! Có việc gì đâu! Tôi cứ tưởng chú Kiệt là họ hàng bên vợ của chú …..Là vì lúc nãy cô ấy chạy sang bên tôi xin lá trầu không về đánh gió. Tôi lại cứ nghĩ là đánh gió cho chú. Tôi sang hỏi thăm xem chú ốm đau như thế nào thì hóa ra không phải là chú. Cô ấy đánh gió cho ông Kiệt. Hai ngừơi ngồi trên giường với nhau!

Mão trợn mắt ngắt lời:

- Bà bảo sao? Kiệt nó đang ở nhà ư? Nó đi làm từ sáng rồi cơ mà!

Bà Vỵ gật đầu quả quyết:

- Đang ở trong nhà với vợ chú chứ có đi làm đâu! Tôi vừa ở bên nhà chú ra mà! Chú về nhanh đi mà xem!

Mão thấy buốt nhói trong tim. Hóa ra thằng khốn nạn này đã giục Mão đi mua tủ chỉ cốt để quay về gặp riêng Hậu! Cơn giận bừng bừng bốc lên, Mão đi nhanh vào ngõ hẽm. Bà Vỵ lẽo đẽo chạy theo, đứng thập thò trước cửa nhà mình xem phản ứng của Mão như thế nào. Bà không hề ghét Kiệt, cũng chả oán thù gì Hậu. Nhưng cử chỉ săn sóc của Hậu, nhất là sự gần gũi chung đụng của Hậu đối với một người đàn ông không phải là chồng, bà thấy vượt ra ngoài phạm vi đạo đức, làm bà tội nghiệp cho Mão nên bà phải nói ra cho Mão biết.

Trong nhà, Hậu vẫn đang đánh gió cho Kiệt. Hai cánh lá trầu không đã nhầu nát, những mảnh vụn li ti rơi đầy trên vai áo Kịêt. Mão vén mành xông vào, thấy quả đúng như lời bà Vỵ nói. Gã xông tới, nắm cánh tay Hậu lôi mạnh. Hậu giật mình suýt té xuống đất, quay lại ngơ ngác nhìn Mão. Kiệt cũng mở mắt, nhưng chưa kịp nói gì thì Mão đẩy mạnh lưng Hậu, làm Hậu ngã chúi vào tường. Mão chỉ mặt Hậu quát lên:

- Con đĩ! Tao mới ra khỏi nhà một tí, mày đã dám giở trò vụng trộm! Vợ đâu có thứ vợ lăng lòan như mày! Ông thì dần cho nhừ xương bây giờ!

Trước thái độ bất ngờ của Mão, cả Kiệt và Hậu đều ú ớ không biết phản ứng như thế nào, chỉ đưa mắt nhìn nhau. Vài giây sau, Hậu mới nghiến răng uất hận mắng lại:

- Cái anh này hay nhỉ! Láo vừa chứ!

Mão nắm cánh tay Hậu lôi ra cửa, xô mạnh vào tường và tiếp tục mắng lớn cố ý cho mọi người lối xóm cùng nghe:

- Mày còn nỏ mồm phải không? Bận này ông tha! Bận sau mà ông còn bắt gặp thì xéo ngay!

Bà Vỵ từ nãy đến giờ vẫn đứng ở cửa, hồi hộp theo dõi. Bà hài lòng vì ít ra Mão cũng biết nghe lời mình, xỉ vả Hậu. Bà tiến lại ôn tồn can:

- Thôi! Cô ấy trót dại. Từ nay chả dám thế nữa đâu!

Hậu trừng mắt nạt lại bà Vỵ:

- Bà bảo chả dám là chả dám cái gì? Tôi làm gì mà bảo tôi trót dại! Chỉ nói láo nói lếu!

Hàng xóm từ từ bu lại, nhà cửa thì sát vách nhau, nên bất cứ chuyện gì xẩy ra ở một nhà, chỉ trong khoảnh khắc cả xóm đều biết hết. Bà Vỵ lờ Hậu đi, quay sang đề nghị với Mão:

- Cẩn tắc vô áy náy! Từ nay đừng có nấu cơm tháng cho người ta ăn nữa! Tháng kiếm được vài hào bạc mà có ngày mất vợ! Đuổi quách đi cho xong! Rõ thật nuôi ong tay áo!

Kiệt từ trong nhà bước ra, cố nhịn, bảo Mão:

- Anh Mão! Có chuyện gì không nên không phải thì đóng cửa bảo nhau. Sao lại kéo ra đường làm ầm ĩ đến thế này?

Mão vênh mặt đáp lại:

- Tao không nói chuyện với mày! Tao dạy vợ tao, không khiến mày xen vào!

Vài người đàn bà chưa hiểu chuyện, xúm lại hỏi thăm bà Vỵ. Thấy người ta bu đông, bà Vỵ lớn tiếng giải thích:

- Cô chú ấy cho người ta ở trọ ăn cơm tháng. Không ngờ lửa gần rơm, cô ấy phải lòng cái người ở trọ ….

Mọi cặp mắt đều đổ dồn vào Hậu rồi lại quay sang Kiệt. Kiệt ngượng quá, lại thấy mình thừa thãi nên rút lui vào lại bên trong. Hậu cũng tái mặt vì xấu hổ. Cô xông tới nắm lấy tay bà Vỵ, giật mạnh và quát lên:

- Bà chỉ ăn nói lăng nhăng! Tôi phải lòng người ta bao giờ mà bà dám bảo thế? Đèn nhà ai, nhà nấy rạng! Sao bà cứ đổ dầu vào lửa là thế nào! Hàng xóm láng giềng tối lửa tắt đèn có nhau, sao bà lại nở vu oan giá họa cho tôi là làm sao?

Bà Vỵ bổng đổi hẳn thái độ, đánh mất hết sự thân tình mấy tháng nay với Hậu. Bà nạt lại:

- Cô dám bảo tôi vẽ chuyện để vu oan cho cô ư? Chính mắt tôi nom thấy cô đánh gió cho ông Kiệt. Hai người ngồi sát cạnh nhau trên giường, thiếu điều ông ấy úp mặt vào … vú cô! Cô còn cãi ư! Tôi nom thấy cô ngồi với người ta, tôi gọi chồng cô về bắt quả tang, cô còn chối nữa hay thôi! Chú Mão, chú ấy hiền lành, chứ gặp ngừơi khác thì cô ốm đòn rồi!

Người kéo đến mỗi lúc một đông hơn. Mỗi người bình phẩm một câu, ai cũng chĩa mũi dùi lên án Hậu. Bao nhiêu uất hận trong ngừơi Hậu giờ này không còn nhắm vào Mão nữa mà chuyển hướng sang bà Vỵ. Con người lá mặt lá trái, đổi thay như chong chóng. Thật uổng công mấy tháng nay Hậu gánh nước, bế con và làm biết bao nhiêu công việc vặt giúp bà. Hậu không thể hiểu được tại sao bà trở mặt dễ dàng như vậy! Bên cạnh bà Vỵ, một giọng đàn bà khác tàn nhẩn nói bâng quơ:

- Thứ gái đĩ già mồm! Cứ gọt đầu bôi vôi rồi tống vào nhà thổ là yên chuyện!

Hậu thấy rõ cả đám đông đều hướng về một phía để lên án mình. Cô không biết xử trí thế nào, đành lui vào nhà. Mão đứng chống nạnh, chửi đổng thêm vài câu nữa rồi cũng vén mành chui vô. Sau lưng, còn nghe văng vẳng giọng nói đàn ông:

- Chung qui cũng tại cái anh chồng lù đù quá! Gặp phải tay tôi, tôi gang họng con vợ ra chứ để như thế mà chịu nhục sao!

Đám đông hiếu kỳ còn đứng nán lại thêm một lúc khá lâu, nhìn đăm đăm vào nhà Hậu. Có đứa trẻ bạo dạn, vạch cả bức mành tre ra xem, khiến Kiệt bực mình khép hẳn cánh cửa lại. Hàng xóm chờ mãi không thấy Mão hoặc Hậu quay ra, họ mới từ từ giải tán. Ai cũng thất vọng vì Mão không thẳng tay trừng trị Hậu như họ vẫn thường chứng kiến mỗi khi ông chồng nghi ngờ bà vợ có tình ý với người khác. Cứ đánh đã, rồi tính sau! Vợ có bị oan thì cũng coi như một lời cảnh cáo trước!

Trong nhà, Hậu ngồi khóc tấm tức ở mép giường. Mão ngồi ở bàn ăn, châm lửa hút thuốc lào. Kiệt nhìn qua khe cửa, thấy không còn ai lãng vãng trước nhà, mới quay vào hầm hầm bảo Mão:

- Tự dưng anh giở chứng ra như thế là thế nào?

Mão ngửa mặt nhả khói rồi cười tự mãn:

- Ô hay! Anh Lê Tiến bảo tôi là thỉnh thoảng vợ chồng phải giả vờ đánh ghen cho ồn ào lên một tí, chứ không thì người ta nghi. Tôi chấp hành chỉ thị của anh Lê Tiến chứ có giở chứng gì đâu! Chính vì thế tôi phải lôi chị Quyết ra ngoài hè mà chửi để hàng xóm nom thấy!

Kiệt chẳng biết nói sao. Anh biết Mão cố tình mượn gió bẻ măng, lợi dụng màn đánh ghen để chửi cho hả giận vì Mão biết Hậu không yêu mình. Như vậy có nghĩa: Đây là màn đánh ghen thật chứ không phải giả. Ghen cũng thật mà chửi cũng thật! Kiệt nhìn thấu tâm địa nhỏ nhen của Mão, nhưng chẳng biết phản ứng thế nào, chỉ nhăn mặt trách:

- Anh có muốn giả vờ đánh ghen, thì anh cũng phải cho chị Quyết với tôi biết trước chứ! Tự dưng tự lành anh nhảy chồm lên như thế thì chị Quyết biết đàng nào mà tham gia!

Mão bưng cốc nước trà nốc cạn rồi nhìn Kiệt phân trần thêm:

- Anh thấy không? Gọi là đánh ghen, nhưng tôi có đánh đập gì đâu! Chửi vài câu cho có thôi!

Hậu đứng phắt dậy, tiến lại gần Mão và uất ức bảo:

- Ăn nói ngớ ngẩn như thế mà cũng mở mồm nói được! Đánh ghen, nghĩa là tôi đánh ghen, vì anh là chồng tôi mà mèo chuột hay có vợ lẽ! Xưa nay chỉ có vợ ghen chồng chưa có bao giờ lại ngược đời là chồng ghen với vợ! Anh cố ý bôi tro trát trấu vào mặt tôi chứ có phải là anh chấp hành chỉ thị của anh Lê Tiến đâu! Đừng có giở trò vải thưa che mắt thánh! Tôi thừa biết rồi!

Kiệt xót xa nhìn Hậu thông cảm trong khi Mão vênh váo đáp:

- Chị muốn nghĩ thế nào là tùy chị! Tôi thì tôi chấp hành lệnh của Thành Bộ mà thôi! Tôi nói cho chị biết, tôi sẽ còn chửi nữa, chứ chưa xong đâu!

Hậu muốn gào lên để vạch rõ cái ý đồ đen tối của Mão, nhưng Kiệt vội đưa mắt làm hiệu bảo Hậu nên ngưng lại, đồng thời Kiệt đặt ngón tay lên mịêng và nhắc:

- Nói bé chứ! Nhỡ người ta nghe thấy!

Dù sao đi nữa Kiệt cũng có mặc cảm tội lỗi trong lòng. Giả như anh không yêu Hậu, thì phen này, với tư cách bí thư chi bộ, Kiệt sẽ thẳng thắn phê bình Mão một cách mạnh mẽ. Nhưng vì vướng mắc tình cảm riêng tư, anh thấy khó có thể mở mồm chửi Mão, bởi Mão sẽ cho rằng anh lấy quyền lãnh đạo để cứơp ngừơi yêu của Mão. Rồi nay mai, nếu được đoàn thể vun xới, anh và Hậu lấy nhau, anh sẽ rất ngượng ngùng khi nhìn mặt Mão.

Kiệt nén tiếng thở dài, bước lại bàn kéo ghế ngồi đối diện Mão và chậm rãi phân tách:

- Sai một ly, đi một dặm! Chị Quyết nói đúng. Người đàn bà đánh ghen chồng là điều hợp lý, vì chồng thường lăng nhăng chứ mấy khi vợ đã lăng nhăng! Đàn bà có chồng đèo bồng, phải đánh ghen thì hàng xóm láng giềng ngừơi ta sẽ động lòng thương hại. Còn bây giờ, chị Quyết mang tiếng là lẳng lơ thì chẳng những ngừơi ta không thương mà còn khinh chê nữa. Mình làm công tác bí mật mà hàng xóm yêu thương thì hàng xóm mới che chở cho mình. Chứ một khi hàng xóm ghét bỏ thì mình ở đây làm sao được nữa! Cụ thể là chị Quyết, từ đây mặt mũi nào mà gặp lại bà Vỵ bên cạnh! Thật là vụn tính quá!

Mão ngẩng lên trấn an Kiệt:

- Anh cứ yên tâm. Tôi sẽ có cách nói với bà Vỵ! Lúc nãy bà ấy mắng chị Quyết chẳng qua là vì bà ấy thương hại tôi mà thôi!

Hậu nhịn không được, chạy lại gần hai người và nói:

- Vẫn biết thế, nhưng còn tôi và anh Kiệt thì sao? Từ nay hàng xóm mỗi lần nom thấy tôi và anh Kiệt, họ sẽ nghĩ thế nào?

Mão đứng dậy nói ngang:

- Thì từ nay chị và anh Kiệt cần cảnh giác hơn, đừng để ai nom thấy hai người nói chuyện thân mật với nhau nữa! Lâu ngày người ta chẳng thấy gì nữa thì người ta sẽ quên đi!

Dứt lời, Mão khệnh khạng bước ra ngoài, biết chắc Hậu và Kiệt căm hận trông theo. Mão đứng nhìn hai bên con hẽm. Vài người tò mò thấy Mão, vội tế nhị thụt vào trong nhà để cho Mão khỏi ngượng ngùng. Họ tưởng Mão xấu hổ vì vừa bị mọc sừng. Nhưng họ lầm! Mão có xấu hổ đâu! Chính Mão bày trò ra mà còn ngượng ngùng gì nữa! Người xấu hổ từ nay chỉ là Hậu mà thôi.

Mão thả bộ ra đầu ngõ, leo con dốc ngắn lên đường chính. Sau lưng, có bà nào hóm hỉnh vừa đọc lớn câu thơ cốt ý cho Mão nghe:

“Thế gian một vợ một chồng,

“ Chỉ riêng nhà Táo, hai ông một bà!”

Dĩ nhiên Mão nghe thấy, nhưng Mão thản nhiên lừng lững bước đi. Lòng Mão lúc này đang nhức buốt vì thất tình, có sá chi vài lời chọc ghẹo của kẻ ngòai đường. Hậu khước từ tình yêu của Mão, tất nhiên Mão rất buồn nhưng không giận vì cho rằng Hậu thực sự chưa muốn lấy chồng như cô từng nói với Mão. Nhưng Hậu khước từ Mão để yêu Kiệt thì Mão thấy nhục nhã lắm, bởi Mão đã thua một thằng tình địch mà Mão vốn đánh giá rất thấp. Mão hình dung lại cái cảnh tượng nhức nhối mà lúc nãy chính mắt Mão chứng kiến: Hậu với Kiệt ngồi sát bên nhau trên giường! Mão thấy quặn thắt như trái tim vừa rướm máu. Kiệt giả vờ ốm để trốn việc, quay về nhà với Hậu. Còn Hậu thì giả vờ đánh gió để được ôm lấy Kiệt! Lời bà Vỵ lúc nãy vẫn còn vang bên tai Mão:

- Cô còn chối nữa ư? Chính mắt tôi nom thấy cô đánh gió cho ông Kiệt. Thiếu điều ông ấy úp mặt vào vú cô!

Chao ôi! Cuộc đời sao lại đắng cay đến thế! Chúng nó nhởn nhơ ngay trước mắt Mão như thách thức! Giờ phút này, chính lúc này, khi Mão đang thất thểu ngoài lề đường để nghiền ngẫm về mối bi thương của mình, thì bíêt đâu hai đứa chúng nó chẳng đang âu yếm nhau một cách ngang nhiên tại nhà! Mão chớp mắt mấy cái. Dường như có đôi dòng lệ sắp ứa ra! Hơn lúc nào hết, Mão mong gặp Lê Tiến càng sớm càng tốt. Mão sẽ xin thành bộ bố trí công tác cho Mão đi nơi khác, để khỏi phải nhìn những cảnh trái tai gai mắt của kẻ thù diễn ra trong cùng một mái nhà! Huống chi Mão không thể chấp nhận một thằng mê gái như Kiệt nắm chức bí thư lãnh đạo chi bộ! Mão sẽ ra đi. Đi đâu cũng được miễn từ nay không trông thấy mặt Kiệt và Hậu nữa. Mão căm thù thực dân Pháp. Nhưng xét ra mối thù ấy chỉ âm ỉ chứ chưa bùng lên mãnh liệt như Mão đang thù Kiệt và Hậu. Mão đăm ra hối hận vì lúc nãy trong cơn ghen, đã không tát cho Hậu mấy bạt tay cho sưng vếu cái mặt dày của con đàn bà khốn nạn ấy! Mão có đánh Hậu thật đau thì cũng chả sao, bởi đánh ghen là chỉ thị của Lê Tiến! Bây giờ nghĩ lại thì Mão thấy mình vẫn còn yếu đuối, vẫn hữu khuynh, vướng mắc tình cảm tiểu tư sản, nên chưa dứt khoát được. Mão đã được học bao nhiêu tài liệu dạy rằng, đối với kẻ thù, nhất định không bao giờ nương tay. Như thế có nghĩa là Mão vẫn còn yêu, vẫn còn hy vọng! Người chung quanh cười Mão là thằng chồng đần độn cũng đúng, bởi bắt được vợ ngoại tình mà không dám trừng trị, chỉ chửi đổng vài câu vu vơ!

Đi lang thang ngoài lề đường một lúc, Mão chán nản quay trở lại. Từ xa, Mão thấy bà Vỵ đứng ngoài đầu con hẽm. Bà ra đây không phải là vô tình. Bà ra để chờ Mão. Bởi lúc nãy thấy Mão lủi thủi đi ngang trước nhà bà. Bản tính híếu kỳ lại hay lẽo mép, bà muốn bíêt từ nay Mão sẽ đối xử với vợ và tình địch như thế nào. Dường như cuộc sống tình cảm của bà quá bất hạnh, nên bà không chịu đựng nổi những người phụ nữ có hạnh phúc như Hậu mà còn giở thói lẳng lơ. Bà cảm thấy có công lớn đối với Mão vì đã chỉ cho Mão bắt quả tang vợ đánh gió cho thằng ở trọ ăn cơm tháng! Chờ Mão tới gần, bà nói:

-- Chú ra đây làm gì? Để hai đứa chúng nó ở nhà, cho chúng nó đú đởn với nhau hay sao?

Mão nhìn bà, chán nản buông xuôi:

- Kệ mẹ chúng nó!

Bà Vỹ trợn mắt gắt nhẹ:

- Chú nói thế mà nghe được ư? Thiên hạ người ta nhiếc cho mà điếc tai! Ai cũng bảo chú là nhu nhược! Chú có nương tay lắm thì cũng phải tống cổ ông Kiệt đi chứ! Tò vò mà nuôi con nhện hay sao?

Mão thở dài nói cho xong chuyện:

- Để từ từ rồi tôi đuổi cả hai đứa đi!

Bà Vỵ uất ức đáp:

- Lại còn để từ từ! Sao không tống ngay đi!

Mão không biết nói sao vì không thể trình bày rõ cái uẩn khúc trong chuyện tình tay ba đang làm tan nát cõi lòng Mão. Gã bỏ bà Vỵ, đứng đó, lẳng lặng rẽ vào con hẻm. Những gánh hàng rong bày rải rác, những kẻ nhàn rỗi ngồi hóng mát, bọn trẻ bụng ỏng đít vòn lê la chơi dọc con hẻm, tất cả đều nhất loạt ngẫng lên nhìn theo Mão, phân ưu cùng anh chồng hiền lành vừa bị vợ ngoại tình mà không dám phản ứng mạnh. Bà Vỵ trông theo cái dáng ủ rũ của Mão. Tự dưng bà thấy bực bội vì vừa nhận ra trong vụ này Mão còn đáng ghét hơn cả Hậu!

Về tới nhà, Mão buốt nhói nhìn cánh cửa khép kín. Trong nhà chỉ có Kiệt và Hậu. Từ nãy đến giờ, chúng nó đã làm gì với nhau ở trong đó? Mão đau đớn tự hỏi. Mão muốn giơ chân đạp bung cánh cửa, xông vào chửi cho đôi “gian phu dâm phụ” một trận nên thân. Nhưng, trước bao nhiêu cặp mắt tò mò của hàng xóm chung quanh đang chăm chú theo dõi, Mão đành đứng yên, làm mặt thản nhiên như không hề có chuyện sóng dậy trong lòng.

Thật ra thì chẳng phải Kiệt hay Hậu cố ý đóng cửa để tâm sự. Từ sau lúc đánh ghen, trẻ con cứ thập thò đi tới đi lui, thậm chí đứng ngay cửa nhìn thẳng vào, khiến Hậu bất đắc dĩ phải đóng hẳn lại, trái với thông lệ là lúc nào cũng chỉ khép hờ. Đã toan gõ cửa, Mão lại đổi ý, quay đầu trở ra con lộ chính. Người lớn, trẻ con, đứng ngồi rải rác trên con hẻm, đều chăm chú theo dõi từng động tác của Mão bằng ánh mắt thương hại. Mão không thèm bận tâm, cứ cấm đầu bước đi. Bà Vỵ thấy Mão vừa vào lại ra ngay, ngạc nhiên hỏi:

- Chú đi đâu đấy?

Mão sẵng giọng hờn dỗi:

- Đi đâu kệ tôi! Việc gì đến bà?

Bà Vỵ ngượng ngùng đứng yên, nhìn theo cái dáng thất thểu của Mão băng qua đường, Mão rẽ tay phải, đi khoảng mười thước thì dừng lại ở cái quán giải khát, chuyên bán nước chè tươi và bánh gai. Bà hàng đon đả chào Mão bởi thỉnh thoảng Mão vẫn lén ra đây ăn bánh. Mão không thể mua về được vì nhà có đến bốn người, tốn phí lắm. Thèm ăn thì Mão chờ Hậu đi chợ, Kiệt và Thông đi làm, một mình Mão chạy ra đây thưởng thức.

Bà hàng vừa têm trầu vừa bảo Mão:

- Hôm nay có bánh gai mới, ngon lắm. Mời ông xơi!

Mão không trả lời chỉ khẽ nhếch mép gật đầu đáp lễ rồi ngồi xuống cái ghế gỗ thật thấp sát cây cột tre chống mái nhà. Bà hàng rót nước vào bát cho Mão. Mão hớp một ngụm rồi lơ đãng nhìn ra con đường hẹp đầy khách bộ hành qua lại. Lâu lâu mới có một chiếc xe đạp thô sơ, cao lênh khênh, chạy ngang, bấm chuông inh ỏi. Theo thói quen, bà hàng trao cái điếu cày cho Mão. Mão vừa vê thuốc nhét vào nõ, vừa suy nghĩ về hoàn cảnh éo le hiện tại của mình. Mão không ngờ có lúc mình yếu đuối như hôm nay. Từ khi tuyên thệ gia nhập đảng, cha mẹ anh em Mão còn bỏ một cách dễ dàng mà tại sao bây giờ lại lụy vì tình vì một cô gái quê là Hậu? Mão thở dài ôn lại chặng đường mấy năm qua, từ một thanh niên lớn ở nông thôn, may mắn được đi học chữ quốc ngữ qua trình độ căn bản. Mão ức lòng vì bị mấy anh lính lệ nihều phen bắt nạt. Lính lệ là thứ lính An Nam phục vụ cho quan Phủ, quan Huyện, không có vũ khí, chỉ chuyên cầm roi dọa dẫm dân chúng và ve vãn đàn bà con gái ngòai chợ. Mão nhìn chúng nó mà ứa gan. Nhân có lệnh của Huyện truyền về làng, bắt lý trưởng tuyển 5 người lính khố xanh – tức là lính An Nam do sĩ quan Pháp chỉ huy để phục vụ chính quyền bảo hộ - Mão tình nguyện xin gia nhập để tìm đường công danh trong quân đội. Thứ lính này có súng, có quân phục và được tập luyện từng bước đi theo đội hình, cho nên dân gian thường gọi là Lính Tập. Đường binh nghiệp từng nấc thang leo lên tuy khá dài, nhưng Mão vẫn hy vọng tiến bước. Từ lính trơn, lên Cai, lên Đội rồi quan Quản. Mão thấy tương lai mở ra một viễn tượng thật hấp dẫn về uy quyền mà Mão đã chứng kiến ở những người đi trước, mỗi khi về quê oai nghiêm hống hách không thua gì các quan viên chức sắc trong làng. Đó là giấc mơ danh vọng của Mão. Nhưng trời chẳng chiều lòng ngừơi! Mão đã leo lên đến Cai nhất – tương đương với Hạ sĩ nhất sau này – đi đâu cũng được ngừơi ta gọi bằng “thầy Cai Nhất”, thì Mão phạm kỷ luật, lại bị lột xuống Cai nhì. Quan Quản, trung đội trưởng của Mão ghét Mão lắm, hở một chút là kiếm chuyện phạt Mão. Mão ức lòng chửi lại rồi đào ngũ luôn. Về làng sống không yên vì lệnh truy nã. Mão giác ngộ theo cách mạng và thóat ly từ đó.

Bỏ gia đình xuống Hà Nội, sống một cuộc đời mới có ý nghĩa. Mão tìm vui trong công tác đoàn thể giao phó và nhất là trong sinh hoạt hàng ngày của tổ đảng. Mỗi ngày qua đi là một ngày căng thẳng hồi hộp vì mạng lưới mật thám giăng tỏa khắp nơi. Vui ít, lo nhiều, chỉ có lý tưởng giành độc lập là ngọn đuốc rực rỡ để Mão cùng các đồng chí hướng tới mà tạm quên gian khổ.

Giữa lúc ấy thì Hậu xuất hiện như luồng gió mát thổi vào tâm hồn khô cằn của Mão. Những gần gũi, những chung đụng, càng ngày càng làm cho Mão say đắm hơn dù Mão cũng linh cảm được là Hậu không có thiện cảm với mình. Hậu không có thiện cảm với Mão cũng không sao, Mão có thể chấp nhận được sự từ khước, bởi buồn một thời gian rồi sẽ quên đi. Nhưng cái đau của Mão là Kiệt, Hậu từ chối chỉ vì Kiệt! Thằng khốn nạn này đã chiến thắng Mão một cách dễ dàng làm Mão thấy nhục nhã lắm. Mão không muốn nhìn mặt chúng nó. Mão muốn tách khỏi chi bộ này và hy vọng không bao giờ còn gặp lại hai khuôn mặt trơ trẽn ấy trên bước đường cách mạng.

Thấy Mão trầm tư, bà hàng nước ân cần nói:

- Ăn bánh gai nhá! Tôi đãi!

Đang thất tình, Mão chẳng tha thiết gì nữa. Gã gượng cười đáp:

- Cám ơn bà. Để khi khác!

Rồi Mão uống cạn bát nước và đứng dậy, băng qua đường.

Vừa rẽ vào hẽm, từ xa Mão đã thấy bà Vỵ đứng ở cửa, dáng điệu bồn chồn đi ra đi vào. Mà bà bồn chồn thật, bởi bà đang nóng ruột chờ Mão. Tính hiếu kỳ đã thúc đẩy bà làm một việc mà đáng lẽ chẳng bao giờ nên làm, nhất là ở tuổi bà. Đó là ghé mắt dòm qua bức vách để theo dõi Kiệt và Hậu. Nhà bà và nhà Hậu chung một bức vách gỗ. Ván đóng dĩ nhiên không khít, nhưng mỗi bên đều cẩn thận dán thêm một lớp giấy tạp phủ kín. Riêng cái góc phía trong cùng phía nhà Hậu, chỗ Mão in truyền đơn thì ngoài lớp giấy báo, Mão còn căng hai lớp vải bao tải lên tường, để bảo đảm bên nhà bà Vỵ không thể nào dòm lén qua được.

Nhà nhà cách nhau chỉ có lớp vách ván, nhưng vì trong hẽm lúc nào cũng ồn ào tiếng nói, tiếng cười, tiếng khóc, tiếng rao hàng, tiếng chửi rủa, tiếng búa từ cái lò rèn ở đầu hẽm, cùng bao nhiêu thứ âm thanh hỗn động khác, nên những cuộc họp bàn kín đáo bên nhà Hậu, không sợ lọt sang hàng xóm.

Từ lúc nói chuyện với Mão ở lề đường, thấy thái độ của Mão bất cần trước chuyện ngoại tình của vợ, bà Vỵ bực lắm. Bà về nhà, đi tới đi lui. Đứa con vẫn đang ngủ say trên võng. Bà đứng áp tai vào vách, nghe ngóng bên nhà Hậu, nhưng chẳng nghe được gì. Bà ngẫm nghĩ một chút rồi nảy ra sáng kiến phải dòm qua. Bà lấy chiếc đũa nhè nhẹ chọc thủng một lỗ trên vách rồi khom lưng quan sát. Qua cái lỗ hổng nhỏ ấy, bà thấy Hậu ngồi khóc ở bàn. Bà biết Hậu vẫn còn đang ấm ức vì lúc nãy bị Mão chửi trước mặt hàng xóm. Bà tự nhủ:

- Oan ức gì mà khóc! Chồng chưa đánh gãy răng là may lắm rồi còn gì nữa!

Bổng bà giật mình khi thấy Kiệt từ giường tiến lại, đứng sau lưng Hậu rồi đặt hai bàn tay lên vai Hậu. Đầu Hậu đang cúi, từ từ ngẫng lên, xoay một chút để áp mặt vào bụng Kiệt. Bà Vỵ nín thở để khỏi thét lên. Đối với một người đàn bà có chồng như Hậu, ngoại tình cỡ này là đũ để bị trừng trị đích đáng rồi. Bà rón rén bước nhanh ra ngoài, dáo dác nhìn ra đường. Hơn bao giờ hết, bà nóng ruột chỉ mong Mão trở về để bắt quả tang một lần nữa, mà lần này thì cảnh ân ái của Kiệt và Hậu diễn ra mặn nồng hơn trước nhiều.

Chờ một lúc không thấy Mão, bà Vỵ lại quay vào nhìn tiếp. Cảnh cũ vẫn còn tiếp diễn. Bà lại nôn nao chạy ra. Mấy lần như vậy thì may quá, Mão từ quán nước trở về. Bà Vỵ đứng sẳn ở cửa, nhìn Mão, đặt ngón tay lên miệng làm hiệu bảo Mão im lặng. Rồi bà vẫy tay giục Mão vào gấp trong nhà. Mão chưa hiểu gì, ngơ ngác đi theo. Bà ví đầu Mão vào cái đầu Mão vào cái lỗ nhỏ bà vừa khoét. Bên kia, Kiệt nằm trên võng, chiếc võng căng ngang hai thân cột, thòng xuống chỉ cách mặt đất khoảng một gang tay. Hậu ngồi dưới đất, trên cái ghế đẩu lùn sát bên cạnh Kiệt. Hai bàn tay Hậu nắm hai bàn tay Kiệt, đặt trên bụng Kiệt. Chẳng hiểu Kiệt nói gì mà Mão thấy Hậu cứ gật đầu liên tục. Rồi Hậu cúi xuống, nghiêng đầu, áp mặt đặt trên bụng Kiệt. Cảnh tượng lãng mạng quá làm Mão choáng váng muốn quị xuống. Lúc nãy, khi bắt gặp Hậu đang đánh gió cho Kiệt, Mão đã đau đớn lắm rồi. Nhưng Mão vẫn còn gắng gượng tự an ủi mình là biết đâu Hậu chỉ vì tình đồng chí mà săn sóc cho Kiệt khi ốm đau, như cô y tá băng bó vết thương cho đồng đội. Bây giờ nhìn Hậu gục mặt vào người Kiệt thì Mão chẳng còn chút gì để ngờ vực nữa. Sự thật đã rõ trắng đen. Hai đứa chúng nó đã phải lòng nhau từ bao giờ mà Mão không biết. Ngày ngày, Kiệt đi vắng, chỉ có Mão túc trực bên cạnh Hậu, thế mà Hậu nỡ lạnh lùng với Mão để mê thằng kia! Mão lảo đảo bước ra ngoài. Bà Vỵ lẽo đẽo theo sau, hồi hộp chờ cơn lôi đình của Mão! Bà ghé tai, nghiếng răng bảo:

- Về, cho chúng một trận! Tống cổ thằng kia đi!

Nhưng lạ quá! Mão không xông vào trừng trị vợ và tình địch. Mặt tái nhợt, bước chân xiêu vẹo, Mão quay ngược ra lề đường chính và cứ thế lững thững bỏ đi. Bà Vỵ thất vọng, trố mắt trông theo cho đến khi bóng Mão khuất hẳn ở ngã ba đường, bà mới quay vào nhà tiếp tục nhìn qua lỗ hổng.

Trời đã về chiều nhưng sức nóng vẫn còn hừng hực. Mão vẫn tiếp tục lê những bước nặng nề trên hè phố, dù chẳng biết đi đâu. Quay về căn nhà u buồn ấy thì Mão không thể chịu nổi. Mà Mão cũng chẳng cần quay về, bởi hành trang của Mão trong ấy chẳng có gì ngoài hai bộ quần áo vá. Túi Mão có tới hai đồng, đủ cầm hơi trong lúc chờ thời. Mão tính xem nên đi đâu. Tìm gặp Lê Tiến để báo cáo tình hình chăng? Mão biết chỗ Lê Tiến đang tạm trú, nhưng Lê Tiến đã nhiều lần dặn, nếu không có gì thật khẩn cấp thì không được ghé vào, sợ lộ bí mật.

Mồ hôi loang loáng trên khuôn mặt não nề, đẫm ướt vai áo, in thành một vệt dài từ cổ xuống lưng. Mão rẽ sang một con phố lớn, san sát những cửa hàng tấp nập người ra vào. Trên mặt đường tráng nhựa đen bóng, những chiếc xe song mã chở Tây Đầm đi nghênh ngang, những chiếc xe kéo bánh cao-su loại mới, trên đó có anh lính Pháp ngồi bên cạnh cô gái An Nam cạo răng trắng và vấn tóc trần. Những chiếc xe đạp gắn nhản hiệu Hirondelle từ thành phố Saint Étienne bên mẫu quốc gửi sang, còn rất hiếm hoi nên vành nhôm lúc nào cũng được lau chùi sáng bóng. Giá như gặp lúc tâm hồn thanh thản, Mão có thể đứng lại ngắm con phố cả ngày chưa thấy chán. Nhưng hôm nay, người buồn cảnh vật có vui đâu bao giờ, Mão chẳng còn tìm được chút hứng thú nào ở ngoại cảnh.

Tiếng còi xe làm Mão giật mình ngẫng lên. Bổng Mão nhìn thấy bên kia đường, hai người đội xếp đang đi tuần trước một tòa nhà uy nghiêm có lính gát cổng và phía trên có cắm lá cờ tam tài xanh trắng đỏ, đang bay nhẹ trong gió. Nhìn một lúc, thấy nhiều người đội xếp, tức cảnh sát sắc phục, đi ra đi vào.

Mão đoán đó là Sở Cẩm, tức sở cảnh sát. Trong đầu Mão chợt nãy ra một ý nghĩ táo bạo. Mão nhìn quanh rồi tạt vào một hiệu bách hóa mua cây bút chì và mảnh giấy viết thư.

Nữa tiếng đồng hồ sau, Mão băng qua bên kia đường, đứng nép vào gốc cây bàng, cách sở cẩm khoảng trăm thước. Một đứa bé đeo thúng bánh bông lang, đi ngang Mão và rao lớn:

- Bánh bông lang đây! Bánh bông lang thơm ngon đây!

Mão vẫy đứa bé lại. Nó mừng rỡ, ân cần:

- Ông ơi! Cháu còn có 4 cái. Ông làm ơn mua giúp cháu nhé!

Mão gật đầu dặn:

- Tao bằng lòng mua tất cả của mày. Nhưng tao nhờ mày một việc. Không có khó khăn gì cả!

Đứa bé tò mò hỏi:

- Việc gì thế hở ông?

Mão moi trong túi ra một mãnh giấy gấp làm tư, đưa cho đứa bé và nói:

- Mày cầm mảnh giấy này, chạy lại đưa cho ông đội xếp đứng gát đằng kia kìa! Có thế thôi! Mày làm được không?

Đứa bé vẫn tò mò:

- Được chứ ông! Nhưng giấy gì thế hở ông?

Mão gắt nhẹ:

- Mày có biết chữ đâu mà hỏi! Đây là lá đơn tao xin vào làm việc co sở cẩm, hiểu chưa

- Ông xin chân quét nhà hở ông? Cháu có quen ông Bộc, quét nhà ở trong ấy mấy năm rồi! Thỉnh thoảng ông ấy vẫn mua bánh của cháu!

- Ừ! Họ cho làm gì, tao làm cái ấy … Bây giờ mày đưa hết bánh đây cho tao. Tao trả tiền đủ. Cho thêm mày một xu nữa. Rồi mày cầm mảnh giấy này lại đưa cho ông đội xếp. Nhớ đừng có đánh mất!

- Cháu nhớ rồi!

Một bên nhận bánh, một bên nhận tiền và giấy. Thằng nhỏ hân hoan chạy lao đi. Tức thì Mão cũng lấm lét lủi nhanh vào con hẽm nhỏ và biến mất trong đám người lao động vừa tan sở. Mão hồi hộp lắm. Mảnh giấy trao cho đứa bé, Mão chỉ viết có mấy chữ: “Căn nhà số 19, ngã Lò Rèn, là hội kín cộng sản “!

Mão biết rõ thời điểm này, chỉ cần nghe hai chữ “hội kín” hoặc “cộng sản” là mật thám Pháp tung lưới bủa vây ngay. Có những kẻ tố cáo thật vu vơ, mà mật thám còn sục sạo đến nơi đến chốn. Huống hồ Mão có ghi rõ địa chỉ hội kín. Guồng máy thực dân bước sang thế kỷ 20, chủ yếu là dùng lực lượng mật vụ làm rường cột để duy trì chế độ trên đất nước Việt Nam.

Ở nhà, Kiệt và Hậu trằn trọc cả đêm không ngủ được vì chờ mãi không thấy Mão về. Hậu biết Mão bỏ đi vì giận Hậu, mặc dù việc giận ấy rất vô lý. Kiệt thì áy náy khôn nguôi vì thấy mình quá nhỏ nhen, quá tầm thừơng, không cưỡng nổi sự rung động của trái tim để làm mất đi niềm tin của một đồng chí. Cách xử sự ấy không thể chấp nhận được ở một người lãnh đạo chi bộ. Không dám hy sinh tình cảm thì đàn em làm sao nể phục! Kiệt đã đẩy Mão ra đường để đón nhận bao nhiêu nguy hiểm, có thể gây tai hại cho đoàn thể. Kiệt cứ tiếp tục tự dằn vặt. Lúc thì đi tới đi lui, lúc thì ngồi hút thuốc lào, lặng thinh không nói.

Nửa đêm, ngoài ngõ đã im lìm, không tiếng xe chạy, không tiếng người nói, Kiệt vẫn còn chong đèn ngồi chờ Mão. Hậu đã chui vào mùng được một lúc, lại chui ra, cầm cái nan quạt nan đuổi muổi, đến sau Kiệt và bảo:

- Thôi! Tắt đèn đi ngủ đi. Ngồi ngoài này, muổi cắn chết! Ông ấy có về thì ông ấy gọi cửa!

Kiệt thở dài đứng dậy, vặn nhỏ ngọn đèn và lại giường, buông màng xúông. Hậu tần ngần một chút rồi cũng quay trở về giường của mình. Gọi là giường nhưng thật ra chỉ là tấm ván cũ kê ở góc nhà, trải chiếc chiếu cá nhân và chiếc mùng nhỏ mà Kiệt mua tặng Hậu ngay từ ngày đầu. Chính cái mùng ân nghĩa ấy làm Hậu chú ý đến Kiệt và dành thiện cảm cho anh hơn Thông và Mão rất nhiều. Miếng ván, chiếc chiếu và cái mùng, cả ba thứ đều mau chóng trở thành chỗ trú ngụ cho hàng đàn rệp. Cho nên cứ lâu lâu, Hậu lại phải mang cả 3 thứ ra sân, rồi đun nước cho thật sôi để xối đi xối lại nhiều lần.

Hậu chợp mắt được một lúc khá lâu thì choàng tỉnh dậy vì Kiệt nhè nhẹ vén mùng chui vào. Hậu nhích hẳn vô vách để nhường chỗ cho Kiệt. Hậu sung sướng hỏi nhỏ:

- Đằng ấy chưa ngủ tí nào phải không? Em ngủ được giấc rồi!

Kiệt nằm nghiêng âu yếm quàng cánh tay qua người Hậu và gát một đùi lên chân Hậu. Hậu đê mê nhắm mắt lại, tận hưởng cái hạnh phúc đầu tiên của đời con gái. Kiệt thì tuy cũng rạo rực như Hậu, nhưng vẫn cứ bị ám ảnh bởi hình ảnh của Mão giờ này chẳng biết nằm ở đâu giữa thành phố xa lạ. Hai người thì thầm nói chuyện, kể cho nhau nghe về gia cảnh, về mộng ước, những điều mà nửa năm nay tuy sống chung một mái nhà nhưng không có dịp để thố lộ. Vừa nói chuyện, Kiệt vừa lợi dụng tình thế, đặt tay lên đùi Hậu, rồi nhè nhè kéo váy Hậu lên. Nhưng Hậu nắm tay Kiệt đẩy sang bên cạnh. Kiệt lại đặt bàn tay lên ngực Hậu, bên ngoài cái yếm nâu và cũng bị Hậu nắm cổ tay, đặt xuống chiếu. Lần nào Hậu cũng bảo:

- Đừng anh! Đừng làm thế, em sợ lắm!

Kiệt mĩm cười trong bóng tối bởi biết đó là thủ tục tự nhiên của phụ nữ. Hậu xoay người nằm nghiêng, úp mặt vào ngực Kiệt và nói:

- Ngủ đi anh! Ngủ một giấc đi! Khuya quá rồi!

Kiệt ngoan ngoãn nghe lời:

- Ừ! Dễ đến ba bốn giờ sáng rồi đấy!

Anh đặt tay lên vai Hậu, xoa nhè nhẹ trên lớp vãi thô. Hơi ấm từ da thịt Hậu truyền sang thật nhanh, đem theo niềm hạnh phúc chan hòa trong lòng Kiệt. Anh không ngờ đi làm cách mạng mà cũng có lúc sung sướng như thế này. Anh nhắm mắt lại và ước thời gian đứng yên để cái giây phút ngất ngây này trở thành vĩnh cửu!

Hai người đang thiu thiu ngủ thì giật mình choàng dậy vì tiếng đập cửa liên tục. Chưa kịp nghĩ xa xôi, Kiệt tung mùng chạy ra vì sợ người ta bắt gặp anh ngủ chung với Hậu. Hậu cũng lao ra ngay, đứng giữa nhà, hoảng hốt nhìn Kiệt. Lúc nãy, khi nghe tiếng gọi lần đầu tiên, Hậu cứ tưởng là Mão. Nhưng bây giờ thì tình hình đã rõ nét. Bên ngoài, tiếng quát tháo vẫn tiếp tục vang lên:

- Mở cửa ra! Nhanh lên! Mở cửa! Ouvrez la porte! Vite! Vite!

Tiếng Pháp, tiếng Việt, tiếng đập cửa, tiếng bước chân chạy thình thịch trộn lẫn với nhau. Hậu và Kiệt tuyệt vọng nhìn nhau, bởi giờ phút này, chẳng cần ai nói ra, cũng đều biết là mật thám Pháp đang vây nhà. Hậu cố gắng lấy chút điềm tỉnh, nói vọng ra:

- Ai hỏi gì đấy? Để từ từ tôi mở!

Tiếng quát tháo lớn hơn:

- Dépêce-toi! Ouvrez la porte tout de suite!

- Tôi mở bây giờ đây!

Nhưng Hậu chưa kịp mở thì cánh cửa bị đạp tung ra, lố nhố ngừơi xông vào, súng lăm lăm cầm tay, nạt nộ, hò hét, bằng cả hai thứ tiếng. Những chuyến lục soát như thế này, mật thám Pháp thường đem theo một hai nhân viên tay sai ngừơi Việt hay ít ra cũng có một thằng Tây nói thạo tiếng Việt.

Một gã Tây chộp lấy Kiệt còn một gã túm lấy Hậu. Mấy đứa còn lại thì xông vào mọi góc, lục lọi từ trong nhà ra sân sau. Hậu nạt lại:

- Buông tôi ra! Tôi có tội gì đâu mà bắt tôi?

- Mày cứ về sở Liêm Phóng, sẽ biết mày tội gì!

Một thằng Tây biết nói sành tiếng Việt, chỉ Kiệt và hỏi Hậu:

- Mày là gì của thằng kia?

- Tôi là vợ.

- Giấy giá thú mày đâu?

- Tôi đi buôn, gặp anh ấy rồi theo anh ấy, chưa làm giá thú!

Giữa lúc ấy, hai đứa từ trong tấm cói của Mão, ôm ra một đống truyền đơn cùng với khay mực, khuôn in và thậm chí cả cờ búa liềm cùng khẩu hiệu chào mừng Cách Mạng tháng Mười của Liên bang Xô Viết. Chúng chìa nhau trước mắt Kiệt và Hậu, mặt hiu hiu tự đắc hỏi:

- Chúng mày còn chối nữa hay thôi!

Lập tức, thằng Tây giơ thẳng cánh tay tát Hậu một cái nảy lửa, làm cô ngã chúi vào vách. Thằng khác thì đấm hùynh huỵch vào bụng Kiệt và hỏi:

- Bọn chúng mày ở đây có tất cả bao nhiêu đứa?

Kiệt rán nhịn đau nói:

- Chỉ có hai đứa chúng tôi thôi!

Chúng còng tay Kiệt và Hậu đẩy ra con lộ chính, tống lên chiếc xe bít bùng có những ô cửa sổ mắt cáo thật kiên cố. Đồng bọn còn nán lại trong nhà, lục soát khá lâu. Khuân tất cả những tang vật về sở Liêm Phóng. Với những tang vật cụ thể như thế, thừơng thì Kiệt và Hậu sẽ lãnh bản án khổ sai chung thân khi ra trước Hội Đồng Đề Hình. Tội làm loạn chính quyền bảo hộ, là tội đại hình không khoan nhượng.

Khi vừa ra cửa, Hậu nhìn lại cái khăn ám hiệu treo trên sợi giây phơi, cô quay sang năn nỉ thằng Tây:

- Ông làm ơn cho tôi đem theo cái khăn rửa mặt!

Rồi không chờ nó trả lời, Hậu đưa bàn tay bị còng lên chộp cái khăn, nhưng không nắm được. Thằng Tây lạnh lùng đẩy mạnh lưng Hậu làm cô lảo đảo súyt ngã chúi về phía trước. Hậu ngoan cố quay đầu lại nằn nì:

- Cho tôi lấy cái khăn lau mặt!

Vừa nói, cô vừa lao lại, định giằng lấy cái khăn ám hiệu một lần nữa, nhưng thằng Tây đưa bàn tay hộ pháp nắm lấy gáy Hậu, đẩy đi và bảo:

- Đi! Đồ ngớ ngẩn! Trong tù thiếu gì khăn!

Ngoài trời chưa sáng rõ nhưng đã thấy lác đác người đi làm hoặc đi buôn bán sớm. Ngõ hẽm thức giấc rất nhanh vì những tiếng hò hét. Người ta thập thò đứng trong cửa trông ra. Hậu thấy bà Vỵ trố mắt nhìn Hậu và Kiệt, hết sức kinh ngạc. Bà chưa biết Hậu và Kiệt bị bắt về tội chính trị. Bà không ngờ tội ngoại tình mà mật thám Pháp lên án nặng nề đến thế. Họ đem cả một đoàn xe lính kính đến vây nhà Hậu chỉ vì Hậu gục mặt vào lòng Kiệt! Như thế thì chắc hẳn thế lực của Mão chắc phải lớn lắm mới huy động được lực lượng lính kính của Tây đông đảo và nhanh chóng như thế này!

Gã mật thám tay sai dừng lại trước cửa nhà bà, chỉ sang nhà Hậu và bảo:

- Bà kia! Thường thường ở nhà bên cạnh, bà thấy có bao nhiêu người tất cả? Phải khai cho rõ, không thì tôi bắt bà về sở Liêm Phóng vì tội đồng lõa!

Bà Vỵ ngay tình đáp:

- Bẩm. Dạo trước có 4 người. Vợ chồng ông Mão với 2 ông ở trọ, ăn cơm tháng. Một ông mới dọn đi, chỉ còn 3 người!

Gã nhìn xuống cuốn sổ nhỏ từ nãy giờ vẫn cầm trong tay để ghi chép lời khai của Hậu và Kiệt. Gã tiếp tục hỏi thêm về danh tánh những người, lấy bút biên vào, rồi kết luận:

- Như vậy chúng nó có tất cả 4 đứa. Mới chỉ bắt được hai …. Thôi được rồi. Cần gì thì tôi sẽ hỏi thêm.

Lập tức gã bỏ bà Vỵ, rượt theo Hậu và Kiệt đang đi giữa hai gã mật thám Tây. Gã túm lấy tóc Hậu và hỏi:

- Trong nhà mày còn ai nữa không? Thằng Thông với thằng Mão đâu?

Hậu nhắc lại:

- Chỉ có hai vợ chồng tôi thôi!

Hậu vừa dứt, gã tát một cái nảy lửa, làm Hậu lảo đảo chúi đầu vào tường. Gã toan đánh tiếp thì một đồng nghiệp bảo gã:

- Thôi! Cho nó về đồn, giao cho Ban Điều Tra!

Hậu đưa tay quệt vết máu vừa tuôn ra trên miệng. Một nữa mặt sưng vù lên, nhưng Hậu vẫn thấy tê buốt, gần như mất cảm giác. Vừa bước đi, Hậu vừa nghĩ nhanh đến Mão và linh tính cho biết đây là một cuộc trả thù bẩn thỉu của một kẻ thất bại vì tình!

Bước lên xe, thấy Kiệt đã ngồi ở băng sau, Hậu nghiếng răng nói:

- Thằng Mão chứ không ai vào đây!

Kiệt cũng đang nghĩ đến Mão, nhưng chưa hình dung nổi Mão đã tố cáo bằng cách nào. Chẳng lẽ Mão đã ra đầu thú? Cũng có thể, bởi Mão đã một thời đi lính cho Tây. Kiệt buồn rầu nói nhỏ:

- Chung qui cũng tại tôi. Tôi đã đánh giá nó sai. Bản thân tôi lại yếu đuối và ích kỷ! Lỗi tại tôi cả!

Tên mật thám lái xe, quay lại nạt:

- Câm mồm! Nói nhảm cái gì? Về sở Liêm Phóng tha hồ mà nói!

Xe đi ngang một phiên chợ họp sớm, lác đác quang gánh bên cạnh những ngọn đèn dầu leo lét, Hậu chồm người đứng dậy, quay mặt ra sau khung cửa sổ căng lưới mắt cáo và hét lớn, hy vọng ngừơi của đảng nghe được:

- Thằng Mão nó phản bội rồi! Các đồng chí ơi, thằng Mão nó phản đảng rồi!

Hậu chưa dứt câu thì bị tên mật thám ngồi ở băng sau đối diện giơ chân đạp mạnh vào mông khiến cô đập mạnh vào thành xe và ngã bệt xuống sàn. Trong nỗi uất hận ngút trời, Hậu không thấy đau lắm vì cô vẫn đang tự nhủ, nếu một ngày nào đó cô được thả ra, chính tay cô sẽ bắn bỏ Mão.

Việc Hậu và Kiệt bị bắt là một niềm vui lớn đối với mật thám Pháp. Chẳng phải Hậu và Kiệt là hai nhân vật quan trọng, mà vì căn nhà Hậu trú ngụ chính là cơ quan in truyền đơn của Thành bộ Hà Nội. Sở Liêm Phóng tin tưởng rằng, chỉ cần khai thác Hậu và Kiệt thì sẽ dễ dàng phanh ra đường giây của tòan thể Thành bộ đảng Cộng sản.

Cũng khoảng thời gian này, phía VNQDĐ lại mất thêm một số yếu nhân, trong đó có Nguyễn Thị Thuyết và Nguyễn Văn Viên bị bắt tại cơ quan của đảng tại số 9 phố Thanh Giám Hà Nội. Địa chỉ bí mật này là chỗ tới lui của nhhững nhân vật trọng yếu đầu não của Quốc Dân Đảng, nhưng không may bị kẻ phản bội tố giác. Mật thám mở cuộc tấn công đột xuất, hy vọng bắt được Nguyễn Thái Học. Nhưng rất may ông vừa đi công tác với vài đồng chí thân cận, nên một lần nữa lại thoát nạn trong gan tấc.

Bắt được Nguyễn Văn Viên, Pháp mừng lắm vì có dịp trả thù cho René Bazin. Tại phòng thẩm vấn, biết mình đã bị nội tuyến tố giác. Nguyễn Văn Viên thẳng thắn nhận mình là người chủ mưu ám sát Bazin. Anh nói:

- Chính tay tôi đã bắn Bazin! Tôi là đảng viên Quốc Dân Đảng, nhưng việc này là quyết định của riêng cá nhân tôi, một mình tôi, không liên hệ đến ai!

Dĩ nhiên Pháp không tin việc giết Bazin là hành động riêng tư của một ngừơi. Chúng sẽ khai thác Nguyễn Văn Viên để phanh ra đường giây tòng phạm. Tạm thời, chúng nhốt riêng Viên ở phòng giam đặc biệt dành riêng cho Pháp kiều, mục đích để tránh sự liên lạc có thể có với các tù nhân Quốc Dân Đảng khác.

Nằm trong phòng giam tương đối dễ thở này, Nguyễn Văn Viên bùi ngùi suy nghĩ lại hành động của mình hơn nửa năm trước. Anh đã trái lệnh đảng trưởng Nguyễn Thái Học tự ý định kế hoạch giết Bazin, khiến cho toàn đảng phải điêu đứng từ đầu năm đến giờ. Bao nhiêu đồng chí bị tra tấn dã man, bao nhiêu bằng hữu lãnh án khổ sai. Những người tạm thời còn may mắn ở ngoài thì cũng đêm ngày trốn tránh khổ sở mà chưa biết lúc nào sẽ bị bắt! Trong nỗi ân hận chứa chan, anh đã xé áo, kết thành sợi dây và thắt cổ tự tử để bảo vệ bí mật cho đảng.

Trở lại chuyện ngã Lò Rèn, cơ quan in truyền đơn của Thành Bộ Hà Nội mà cũng là căn nhà mà nửa năm qua Hậu đã âm thầm hoạt động với ông táo là nấu cơm và đi chợ cho 3 đồng chí khác. Mấy hôm sau, không may cho Lê Tiến, anh từ bên Khâm Thiên sang tìm Hậu, chưa biết là Hậu và Kiệt đã bị bắt. Tiến gặp Hậu hôm nay cốt để mang cho cô một tin vui là đoàn thể đã quyết định điều Hậu xuống Hải Phòng. Mấy lần nói chuyện với Hậu, Tiến thấy rõ là Hậu cứ thấp thỏm muốn đi, muốn lao vào bất cứ nhiệm vụ gì cho đỡ sốt ruột, thay vì chỉ ngồi nhà nấu cơm cho các đồng chí cả nửa năm nay. Biết Hậu thông minh và có nhiệt tình, Tiến định kéo Hậu về Khâm Thiên, trực tiếp làm việc với cơ quan đầu não của Thành Bộ Hà Nội. Nhưng Tiến chưa kịp thực hiện ý định ấy thì Bắc Vịêt Kỳ Bộ yêu cầu Thành Bộ Hà Nội tăng cường người gấp cho tỉnh đảng bộ Hải Phòng vì một loạt cơ quan bí mật của Đông Dương Cộng sản đảng Hải Phòng vừa bị vỡ tung sau vụ ám sát hai đồng chí Như và Uyễn. Cũng may là mấy đồng chí đầu não như Đỗ Ngọc Du và Nguyễn Hữu Cãnh đều trốn thoát, di chuyển công tác vùng khác. Hải Phòng cần gây dựng lại và nhận thấy Hậu tha thiết muốn rời khỏi ngã Lò Rèn, Lê Tiến liên lạc với các đồng chí ở Hải Phòng để bảo họ chuẩn bị tiếp nhận Hậu. Thông đã đi Sơn Tây rồi, Hậu nay mai sẽ xuống Hải Phòng. Cơ quan ngã Lò Rèn chỉ còn lại hai đồng chí Kiệt và Mão lo công việc in truyền đơn cho Thành Bộ.

Đến trước ngã Lò Rèn, Lê Tiến cẩn thận đưa mắt nhìn quanh hai bên đường theo thói quen. Rồi anh ngó sâu vào hẽm, an tâm thấy cái khăn ám hiệu trước nhà Hậu vẫn còn đó, máng trên giây phơi. Mọi sinh hoạt trong hẽm bình dân vẫn diễn ra như thường lệ: Tiếng búa nện chan chát, tiếng rao của những gánh hàng rong, tiếng khóc tiếng cười của trẻ con, tiếng mẹ mắng con, tiếng chồng chửi vợ. Mọi thứ đã trở thành quá quen thuộc chẳng ai thèm để ý đến nữa. Lê Tiến cứ hân hoan đi thằng vô hẽm. Căn nhà số 19 cửa vẫn hé mở như thường lệ. Bà Vỵ ngồi trong nhà nom thấy, nhưng không dại gì mà chạy ra gặp Tiến. Hôm mật thám đến bắt Hậu và Kiệt, bà cứ ngỡ là Mão đi tố cáo vợ ngoại tình và vì thế lính kín mới đến vây nhà Hậu, đưa đôi gian phu dâm phụ về đồn thẩm vấn. Nhưng chỉ qua một ngày, bà đã nghe thiên hạ xầm xì bàn tán và kinh hãi biết tin nhà Hậu chính là điểm tập trung của hội kín chống chính quyền bảo hộ. Bà run lên bần bật vì không ngờ mình lại quen thân với thành phần to gan ấy. Từ đó, suốt ba hôm nay, bà ăn ngủ không yên, chỉ sợ mình sẽ bị liên lụy hay ít ra cũng sẽ phải ra tòa làm chứng. Hậu và Kiệt bị bắt rồi, bà thấy có một gã đàn ông lạ mặt dọn vào ở nhưng không mang theo đồ đạc gì cả. Mão thì không trở lại nữa. Gã đàn ông lạ mắt cứ ở yên trong nhà Hậu, ít khi ra ngoài, cũng chẳng nói năng gì với ai và cánh cửa chính vẫn hé mở như khi Hậu và Kiệt còn trú ngụ. Bà Vỵ vốn tính tò mò nhưng dĩ nhiên lần này không dám làm quen với gã hàng xóm bởi bà đang lo sợ đứng ngồi không yên, chẳng biết gã thuộc thành phần nào. Mãi đến chiều hôm qua bà gánh nước, gặp ông láng giềng chuyên làm nghề “tóc rối đổi kẹo” phía bên kia nhà Hậu, bà mới được ông ghé tai cho biết cái người mới dọn ở trong nhà Hậu thực ra là mật thám nằm phục kích để chờ bắt nốt những người thường đến đây gặp Kiệt và Hậu! Bà Vỵ, tái mặt á khẩu. Khá lâu bà mới ấp úng kêu lên:

- Thảo nào! Lão cứ trốn biệt trong nhà, không bước chân ra ngoài!

Ông hàng xóm nói thêm:

- Tại bà không để ý đấy chứ. Ở đầu ngõ cũng có một đứa giả vờ đứng bán kẹo kéo. Rồi ở trong cùng, chỗ bức tường chắn ngang hẽm nhà mình, còn thêm một đứa cứ đứng lảng vảng cả ngày ở đấy! Chốc nữa bà về thử nom mà xem!

Bà Vỵ càng kinh hãi, tim đập thình thịch y như mình có dính dáng đến hội kín và đang bị theo dõi. Ông tóc rối đổi kẹo lại thêm:

- Là vì bên nhà ông Kiệt thường có đến bốn, năm người mà lính kín chỉ mới bắt được có hai người. Họ phải rình để bắt nốt những người kia. Cái cô Quyết ấy, mình cứ tưởng là vợ ông Mão. Hóa ra không phải là vợ ai cả. Họ giả vờ thế thôi. Tất cả đều hoạt động cho hội kín chống Tây!

Câu nói của ông láng giềng làm bà Vỵ nhớ lại sáng hôm ấy, chính bà đã ngay tình khai với mật thám số ngừơi ở chung với Hậu, khai cả tên từng ngừơi với mật thám. Bây giờ nghĩ lại bà thấy mình dại dột lại vừa thương cho Hậu và Kiệt giờ này chắc đã ốm đòn vì tra tấn. Bà chép miệng:

- Nào tôi có ngờ đâu! Nom ai cũng hiền lành cả! Chúng nó bắt được, chúng nó đánh cho thì phải biết!

Dứt lời, bà khom người gánh đôi thùng nước về. Dọc đường bà cứ nghĩ đến Mão và tự hỏi không biết bây giờ Mão ở đâu. Bà đi nhanh về đầu ngõ và quả nhiên thấy gã đàn ông lạ mặt đang giả vờ đứng bán kẹo kéo. Nhìn sâu vào, ở cuối hẽm, bà cũng thấy một gã nữa ngồi đọc báo, đúng như lời ông tóc rối đổi kẹo vừa kể với bà. Cả hai khuôn mặt đều lạ, không phải cái đám tay sai đi theo Tây đến bắt Hậu hôm nọ. Bà lấm lét đi nhanh vào nhà và không dám ngẩng đầu lên nhìn ai hai bên hẽm.

Sáng hôm sau thức dậy, bà làm bộ cầm cây chổi cùn ra quét trước cửa để nhìn hai bên đầu hẽm thì quả nhiên vẫn thấy mỗi bên một gã đàn ông, nhưng có lẽ chúng thay phiên nên không còn hai đứa tối hôm qua nữa.Người mình làm tay sai cho mật thám Pháp bây giờ đông quá, chính bà cũng không ngờ. Bà tự dưng thấy mình lâm vào cảnh sống hồi hộp, chẳng bíêt đến ngày nào thì đám mật thám kia mới bỏ đi để trả lại đời sống cũ cho bà.

Sự kiên nhẫn của mật thám Pháp, gài người lại phục kích để bắt trọn ổ, đã đạt được kết quả đầu tiên là Lê Tiến. Thấy cái khăn ám hiệu vẫn còn treo trên giây phơi, Lê Tiến thản nhiên tiến vào. Tiến vừa vén mành, bỏ nón và gọi nhỏ “Chị Quyết ơi!” thì gã mật thám đã núp sẳn sau vách, chĩa ngay khẩu súng lục vào mặt Tiến và gằn giọng ra lệnh:

- Đứng yên! Đừng có giở trò, tao bắn vở sọ!

Lê Tiến kinh hoàng suýt kêu lên thành tiếng. Anh không ngờ cơ quan của Đảng Bộ bị bại lộ. Thằng chó săn đang dí súng vào đầu Tiến, tuổi khoảng hơn ba mươi, mặt mũi đen đũi như ngừơi đi biển dầm mưa giãi nắng quanh năm. Hắn vừa dứt lời thì thằng bán kẹo kéo ở đầu hẽm cũng vừa vào tới, vén bức mành lách nhanh vô và lục soát khắp người Tiến. Hắn sờ nắn kỹ lưởng, moi bất cứ thứ gì trong túi Tiến, bỏ lên mặt bàn. Hắn lùa bàn tay vào cả mái tóc Tiến, lột cả đôi giầy vải và rạch cái mũ Tiến vừa đánh rớt trên mặt đất. Khi biết chắc Tiến không có vũ khí, gã mới quay nhìn đồng nghiệp, gật đầu. Thằng mật thám mặt đen với tác phong đàn anh, ung dung nhét súng vào cạp quần, còn hai tay Tiến cho chắc ăn rồi dễ dãi bảo Tiến ngồi. Gã cũng kéo ghế ngồi đối diện và hỏi bằng giọng hỗn láo:

- Mày là Mão hay là Thông? Nói thật đi! Đàng nào thì mày cũng sẽ phải nói, thà mày nói ngay, tao khỏi phải ta tay! Tao mới nghĩ ra được một trò chơi mới: Hễ cứ mỗi câu tao hỏi mà mày trả lời láo thì tao lấy kìm vặn một cái răng của mày!

Gã nhe răng cười hềnh hệch rồi nhắc lại:

- Mày là Thông hay Mão?

Nghe câu hỏi, Lê Tiến biết rằng Thông và Mão chưa bị bắt. Anh chỉ chưa nghĩ ra được là tại sao chúng nó lại biết tên Thông và Mão! Trước khi trả lời, Lên Tiến cứng rắn nói:

- Các anh có quyền gì mà còng tay tôi? Tôi tội gì?

- Tội mày to lắm! Mày là Thông hay Mão?

- Tôi không phải là Thông, không phải là Mão. Tôi đến thăm người nhà.

- Mày không phải là Mão, không phải là Thông. Thế mày tên là gì?

Lê Tiến chỉ là bí danh, nên Tiến đáp:

- Tôi là Tiến!

Bình thường mà nghe nạn nhân khai tên như vậy, thế nào gã cũng mở sổ tay ra xem, vì gã đã có sẳn những cái tên mà bọn chỉ điểm khai trước với gã. Nhưng việc bố ráp nhà Hậu là một trường hợp đặc biệt hiếm có. Cơ sở này chưa hề bị lộ, chưa hề bị tình nghi để sở Liêm Phóng theo dõi. Sở Cẩm nhận được tờ giấy tố giác hoàn toàn là tình cờ do cơn ghen của Mão. Tình cờ đến độ lúc đầu chín sở Cẩm cũng không tin, bởi trong quá khứ có biết bao nhiêu lần người ta vì muốn hãm hại nhau, đã đặt điều tố cáo vu vơ một ổ hội kín không có thật, làm mất thì giờ của mật thám và làm nhiều người bị bắt oan. Đánh đập, khai thác mãi chẳng thấy gì, đành phải thả ngừơi ta về! Lần này, khi sở Cẩm nhận được tờ giấy viết bằng bút chì do thằng nhỏ bán bánh đưa tới, thằng Tây trưởng đồn cảnh sát đưa cho ban an ninh, trưởng ban an ninh cứ đọc đi đọc lại mãi dòng chữ ngắn ngũi với mối ngờ vực sẳn có trong lòng “Căn nhà số 19 ngã Lò Rèn là hội kín Cộng sản”. Đắn đo suốt cả buổi tối, quá nữa khuya gã mới quyết định dẫn người đi lục xét. Không ngờ kết quả lại vượt quá sự phỏng đoán của gã. Cả thùng truyền đơn với một xấp cờ búa liềm, kèm theo đống tài liệu về chủ nghĩa Cộng sản. Nhà Hậu trở thành một mục tiêu quan trọng cần phải tiêu diệt. Đối với chính quyền bảo hộ thời bấy giờ, năm 1929 là năm của Việt Nam Quốc Dân Đảng, là năm mà toàn quyền Pìerre Pasquier cũng như chánh sở mật thám Đông Dương Louis Marty phải dành hết nỗ lực để dẹp tan Quốc Dân Đảng bởi Quốc Dân Đảng đang là một phong trào cực mạnh trong quần chúng. Dẹp tan Quốc Dân Đảng để dư luận bên mẫu quốc khỏi xôn xao bởi từ sau đệ nhất thế chiến, tiếng nói của những nhà báo tiến bộ ủng hộ việc trả độc lập cho các nước thuộc địa đã bắt đầu nhem nhúm vang lên. Tuy vậy, dưới mắt Pasquier và Marty, Quốc Dân Đảng chỉ là đám cháy bùng lên, tuy là cháy lớn nhưng việc chữa lửa không khó khăn lắm. Nhìn về đường dài thì chủ nghĩa Cộng sản mới là mối lo gan ruột cho chủ nghĩa thực dân, cho các chính quyền thuộc địa. Chính phủ Pháp bên mẫu quốc, đặc biệt là bộ trưởng Thuộc Địa, đã tỏ ra quan ngại Cộng sản ngay từ đầu, khi Liên Bang Xô Viết ra đời năm 1917. Có hai lý do để Pháp sợ Cộng sản. Thứ nhất: đây là một phong trào quốc tế,được hệ thống vô sản toàn cầu hỗ trợ nhau để tính chuyện đường dài.Thứ hai: Các nước thuộc địa như đông dương, đại đa số là dân nghèo. Mà nghèo thì rất dễ bị Cộng sản khai thác. Đảng Cộng sản Pháp thành hình từ năm 1921, sau hội nghị Tours, nhưng không bao giờ cộng sản chính thức nắm chính quyền, bởi lý do dễ hiểu là người Pháp không nghèo, dân trí Pháp không thấp và xã hội Pháp tương đối ít bất công. Trái lại ở những xứ thiếu ăn và quanh năm bị áp bức thì hạt giống Cộng sản nảy mầm một cách hết sức tươi tốt.

Nhận định về Quốc Dân Đảng, Marty báo cáo lên thượng cấp:

“Nhóm người trẻ tuổi vừa nghèo vừa ít học ấy, khó có thể làm nguy hại đến guồng máy cai trị của Pháp tại thuộc địa, bởi vì ai cũng biết chúng ta có cả một lực lượng quân sự và cảnh sát lớn lao, dễ dàng dẹp tan các nhóm chống đối kiểu này”.

Louis Marty nói đúng. Lực lượng Pháp tại đông dương từ năm 1926 đã có: 3 tiểu đoàn Bộ Binh, gồm lính Pháp và lính Lê Dương, 7 tiểu đoàn lính Khố đỏ, 1 trung đoàn pháo binh xử dụng đại bác 75 ly và 105 ly có xe cơ giới chuyên chở, 3 phi đội không quân chiến đấu và yểm trợ. Như thế thì cán cân quân sự giữa Pháp và Quốc Dân Đảng quá chênh lệch, khó lòng mà Quốc Dân Đảng đương cự được. Nói cách khác, dùng quân sự để lật đổ Pháp lúc ấy, không phải là một điều làm cho Pháp sợ hãi. Cái mà cả chính phủ Pháp cũng như quần chúng Pháp lo ngại là sự huy động lâu dài, tập trung sức mạnh của đại đa số quần chúng nghèo đói chống lại chủ nghĩa thực dân nói riêng và chế độ tư bản nói chung. Bởi vậy, trong khi đánh dẹp Quốc Dân Đảng, thực dân Pháp nhiều khi cố tình gán cho Quốc Dân Đảng nhãn hiệu Cộng Sản để việc trừng trị mạnh tay những người ái quốc này, không bị dân chúng Pháp than phiền.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Nhấn vào giữa màn hình để hiển thị Tùy chọn đọc.
Theo dõi Đọc Sách Hay trên Facebook, mỗi ngày chúng tôi cập nhật những cuốn sách, truyện hay nhất!
Dòng Mực Cũ Chương 7

Có thể bạn thích