Dòng Mực Cũ
Chương 12

Thật ra thì căn gác trọ của Minh không phải chỉ mới có ba người đàn bà đến thăm như ông Sửu vừa kể. Bà Truyền, mẹ của Minh, cô Nhi, em họ của Minh và hôm nay là Duyên, đều ghé đây vào ban ngày nên ông Sửu mới nhìn thấy. Ông không muốn thấy, ông cũng vẫn thấy, bởi sạp hàng của ông đối diện với căn gác của Minh, chỉ cách một con đường hẹp ngang. Những người khác từng đến với Minh nhiều lần, nhưng ông Sửu không biết vì họ đến ban đêm lúc ông đã dẹp quầy mũ về nghỉ. Các đồng chí của Thành Bộ như nhóm Nguyễn Văn Viên, Nguyễn Văn Lân, hoặc từ Tổng Bộ như Lê Hửu Cảnh, Nguyễn Xuân Huân, từng ăn ngủ hội họp, thảo truyền đơn trên căn gác nhà Minh vài lần mà tất nhiên Minh không kể cho ông Sửu nghe.

Ông Sửu rót nước trong phích ra hai cái cốc thủy tinh vàng đục và hỏi:

- Cô ấy chắc là người nhà của thầy?

Minh hơi bực mình vì có cảm tưởng như ông Sửu đi quá đà, lúc nào cũng tò mò tìm hiểu về những người gặp gỡ của Minh. Nhưng anh lại tự giải thích ngay giùm ông Sửu: Người ta có quí mình thì người ta mới lo lắng cho mình! Anh gật đầu:

- Vâng! Cô ấy là vai em họ, mới dưới Hải Ninh lên. Thầy mẹ tôi bảo cô ấy lại đến gặp tôi, nhắn tí việc! Người lạ thì tôi đâu dám cho biết chỗ ở của mình! Thời buổi này, biết tin ai!

Ông Sửu nghiêm giọng đáp:

- Thầy ạ! Tôi là kẻ văn dốt vũ dát, lại bị trời bắt tội, hỏng mất một chân, chả làm được gì cho đại sự nữa. Hèn mọn như tôi mà được thầy chiếu cố cho ngồi nói chuyện ngang hàng với thầy là tôi cảm kích lắm rồi …

Minh vội vàng gạt đi:

- Không dám, sao ông lại nói thế!

- Chả phải tôi khách sao đâu! Tôi nói là để thầy hiểu rằng lúc nào tôi cũng qúi trọng những người như thầy. Và càng quí thầy thì tôi lại càng lo, chỉ sợ chuyện chẳng lành xẩy đến cho thầy. Tôi muốn đền đáp cái ơn tri ngộ mà thầy dành cho tôi, nên lúc nào tôi cũng nhắc nhở thầy, mong thầy đừng giận. Tôi nghiệm ra rằng: Chín mươi phần trăm bắt bớ Quốc Dân Đảng xẩy ra gần hai năm nay, đều là do nội phản cả, chứ chả phải do mật thám có tài điều tra! Thầy nghĩ lại mà xem!

Minh chớp mắt thở dài:

- Vâng! Quả có thế! Ông muốn tôi tránh giao tiếp với người lạ chứ gì?

Ông Sửu nhấn mạnh:

- Ngay cả với người quen thầy ạ. Người quen cũng phải đề phòng!

Minh cười:

- Vậy là tôi phải đề phòng ngay cả ông nữa! Vì ông là người quen!

Nói câu nửa đùa nửa thật ấy, Minh chợt nhớ đến lời của Lê Hửu Cảnh. Theo Cảnh thì rõ ràng Quốc Dân Đảng đang bị vỡ vì nội phản, nhưng cũng có thể thêm bàn tay Đông Dương Cộng Sản Đảng nhúng vào. Cảnh chỉ không biết việc tố giác hoạt động của Quốc Dân Đảng với thực dân Pháp là chủ trương của Tổng bộ đảng Cộng Sản hay chỉ là hành vi riêng lẻ của một số cá nhân đảng viên. Vài lần Cảnh từng nói đến điều này với Nguyễn Thái Học, nhưng lần nào cũng bị đảng trưởng gạt phăng đi vì cho rằng Cảnh nghi oan những người đồng chí hướng. Mới đây, gần đến ngày tổng khởi nghĩa, Cảnh càng bồn chồn nóng ruột, chạy đi tìm cô Giang trên Yên Bái để bày tỏ nỗi lo ngại ấy thì xem chừng cô có vẻ xiêu lòng, đồng ý với Cảnh. Cô ưu tư bảo Cảnh:

- Anh Học thì thẳng thắn lắm. Anh ấy cứ lấy lòng quân tử mà đo bụng kẻ tiểu nhân. Nếu em không trưng được bằng cớ gì cụ thể thì khó mà làm cho anh Học tin.

Cảnh chì chiết:

- Chờ có bằng chứng cụ thể thì mình bị bắt hết rồi còn đâu!

Ngẫm nghĩ một chút, cô Giang nhìn Cảnh tội nghiệp nhắc lại:

- Anh đừng nói gì cả. Anh cứ để cho em. Các anh ở Tổng Bộ đang nghi là người cầm đầu phe chủ hòa. Huống chi anh cũng biết anh ghét Cộng Sản cho nên anh có nói ra, người ta cũng sẽ bảo anh vì thành kiến mà vu oan cho đảng Cộng Sản!

Cảnh khổ sở gật đầu. Anh không muốn nói nhưng cứ phải nói. Không thuyết phục được các đồng chí ở Tổng Bộ thì anh tâm sự với những người thân tín như Minh để dặn dò họ phải đề phòng.

Riêng ông Sửu ngồi một chỗ thì những tin tức ông thu lượm được chỉ cho ông thấy một đìều đau lòng là Quốc Dân Đảng đang bị nội phản quá nhiều. Ông chưa bao giờ nghĩ đến việc Đông Dương Cộng Sản Đảng cũng là thủ phạm góp phần bán đứng Quốc Dân Đảng cho giặc.

Minh vỗ vai ông và nói:

- Dù sao tôi cũng cảm ơn ông. Ông dặn thì tôi phải nghe, vì ông trãi đời hơn tôi rất nhiều!

Dứt lời, Minh uống cạn tách trà và đứng dậy cáo từ, băng qua đường …

Hôm sau, Duyên dậy sớm hơn thường lệ. Cả đêm cô chập chờn thao thức nhớ đến Minh. Đời Minh, đó là lần đầu tiên cô có dịp gặp riêng một người con trai mà cô ấp ủ tình cảm từ lâu. Gặp riêng trong căn phòng vắng, tuy chưa nắm bàn tay nhau, thậm chí chưa nói được một câu tình tứ nào, nhưng Duyên đã thấy xao xuyến như mở ra một chân trời yêu đương rực rỡ làm cô trăn trở không ngủ được. Không ngủ được vì bên cạnh niềm vui bất ngờ là gặp được Minh. Duyên lại thấy xót xa vì nhìn rõ hoàn cảnh éo le bế tắc. Cho dù Minh có thiện cảm đậm đà với Duyên đi chăng nữa rồi cũng chẳng đi đến đâu bởi Duyên đang mang nặng lời thề hiến thân cho đoàn thể, không cách nào bỏ cuộc được!

Nằm lăn qua lăn lại, nghĩ quanh nghĩ quẩn, có lúc Duyên tự trách mình quá mềm yếu. Cô từng là Bí thư chi bộ, giảng bài động viên các đồng chí, thế mà giờ đây lại chùn bước thoái lui chỉ vì một chuyện tình vớ vẩn! Duyên thấy cần phải phấn đấu, quên phứt Minh để quay về với nhiệm vụ. Nhưng nghĩ là một chuyện. Trái tim đang rung động chan hòa, không cách nào Duyên có thể gạt được hình ảnh Minh ra khỏi lòng mình!

Sáng thức dậy, đôi mắt còn cay nhưng Duyên không thấy mệt mỏi, trái lại có một niềm vui sâu kín làm cô nao nức như bắt gặp ánh bình minh chan hòa khởi đầu một ngày nắng đẹp. Cô đun nước pha trà cho ông Chu như thường lệ. Lại nấu thêm một bình thủy nước sôi để sẳn ông dùng cả ngày. Rồi cô ra sân trước chẻ mớ củi, trải đều ra phơi. Thời gian trôi quá chậm, cô vào dọn dẹp nhà bếp một lúc, nắng mới bắt đầu xuyên qua cửa sổ. Mọi việc xong xuối, cô đi tắm, thay quần áo và xách giỏ đi chợ. Dĩ nhiên cô đi vòng, tốn thêm khoảng nửa giờ để có dịp đi ngang qua căn gác của Minh, hy vọng Minh có nhà và kéo cô vào ngồi nói chuyện. Đêm hôm qua, cô đã tính đi tính lại và thấy không có cách nào gặp được Minh, ngoại trừ mỗi ngày đi chợ, ghé vào chốc lát cho đỡ nhớ. Nhưng Duyên đảo tới đảo lui ba lần, cánh cửa dẫn lên cầu thang và cửa sổ trên gác đều khép kín vì Minh đã đi làm. Biết trước như thế mà Duyên vẫn thở dài buồn bã, lầm lũi quay lại chợ.

Những ngày kế tiếp vẫn như thế. Cô đến tìm Minh không gặp, mà Minh cũng chẳng thèm ghé vào nhà thuốc Vĩnh An Đường lần nào nữa.

Sáng chủ nhật, Duyên hồi hộp lắm. Cô nhớ lời Minh dặn lúc chia tay: Chủ nhật Minh ở nhà không đi đâu. Cô lo thu dọn mọi công việc cho ông Chu rồi đội nón xách giỏ ra đi. Ông Chu đứng sau quầy thuốc nhìn theo và dặn một câu mà ông đã nói đến chục lần:

- Đi nhanh nhanh lên. Đừng có la cà lâu ở ngoài chợ, ngộ nhỡ có ai quen nom thấy! Mua bó rau hoặc mớ cá, ăn tạm được rồi!

Duyên không trả lời. Cô nhận thấy gần đây ông Chu có những đổi thay không che giấu được. Tuần lễ đầu tiên, ông rất lịch sự với Duyên, một điều chị, hai điều chị, giữ đúng tác phong đồng chí cư xử với nhau. Tuần thứ hai ông bắt đầu chuyển hướng, cố tình tỏ ra gần gũi thân mật với Duyên. Có lẽ cái khung cảnh vắng vẻ chỉ có hai người dưới một mái nhà, đã tạo điều kiện cho ông bịến chất. Đêm đêm Duyên nằm trên cái chõng tre kê ở một góc bếp. Có đêm đã khuya lắm, cô thấy ông Chu bưng đèn vào, tưởng Duyên đã ngủ say, đứng lặng nhìn cô rất lâu làm cô hồi hộp lo sợ muốn đứng tim. Nhiều tối, Duyên đã thu dọn và tắm gội xong, sắp lên giường nằm thì ông cứ lân la nói chuyện vớ vẩn không cần thiết, mục đích chỉ để kéo dài thì giờ ngồi bên Duyên. Duyên nhìn rõ âm mưu của ông.Ông chưa làm gì cả. Nhưng rõ ràng lòng ông đã bùng lên những ham muốn xác thịt. Nếu Duyên ở đây thêm một thời gian nữa mà vợ ông vẫn vắng nhà thì thể nào ông cũng tiến xa hơn vì khó có thể kìm hãm được. Khổ nhất cho Duyên là nhà này không có buồng tắm.Mảng sân sau, chỗ rửa rau, rửa bát cũng chính là nơi mọi người đứng tắm bên cạnh lu nước. Duyên cứ phải chờ trời tối hẳn, rồi lấy chiếc chiếu buộc lên làm màn che cái cửa ăn thông từ nhà bếp ra sân sau cho kín đáo. Dù vậy, đứng xối nước, cô vẫn thấy tông hốc khó chịu lắm, nhất là cô luôn e ngại ông Chu đứng trong bếp nhìn qua kẻ vách. Đoán được tâm trạng của ông, Duyên cũng không nói chuyện với ông nhiều như mấy hôm đầu nữa. Chẳng những Duyên không muốn ông hiểu lầm là cô có thiện cảm với ông, mà còn cố ý tỏ ra lạnh lùng để ông phải dừng lại.

Bước ra thềm, Duyên thấy hối hận vì hôm giã từ Hải Ninh, chỉ mang theo ba bộ quần áo cũ, toàn màu nâu đậm để dễ lăn lóc trên đường cách mạng. Có ngờ đâu bây giờ cần hẹn hò với Minh thì chả nó bộ nào coi được!

Đến trước nhà Minh, cô bước chậm hẳn lại, ngước mắt nhìn lên gác, vui mừng thấy cánh cửa sổ đã mở toang. Cô đi đi lại lại hai ba lần, nhưng chẳng thấy Minh ra. Cô làm bộ ngồi xuống ngay bên vỉa hè, tháo chiếc guốc mộc, xoay qua xoay lại làm như quay guốc sắp bị đứt, cần phải kiểm tra lại. Vẫn chả thấy Minh đâu. Cô đánh liều bước lại gõ nhẹ vào cánh cổng. Bên trong vẫn im lìm. Thất vọng quá toan bỏ về thì may quá Minh từ bên quầy mũ của ông Sửu chạy sang. Duyên thở phào mừng rỡ, khẻ gật đầu chào. Minh không nói gì, chỉ chớp mắt ra hiệu rồi đi thẳng lại cổng, đẩy nhanh cánh cửa và lẻn vào. Anh nhìn sang bên kia đường và yên tâm thấy ông Sửu không chú ý theo dõi. Duyên bước nhanh theo sau Minh, cùng leo lên gác. Hai người vào nhà khép cửa lại. Minh nói cho có chuyện:

- Mới sáng sớm, vừa đẩy cửa sổ ra thì ông Sửu bên kia đường vẫy tay gọi sang, đãi bát bún riêu. Từ chối mãi không được!

Duyên hơi ngạc nhiên. Cô cứ nghĩ người học thức như Minh thì chả khi nào lại ngồi chung với giới lao động bình dân như ông Sửu. Tuy vậy, cô không nói ra điều ấy. Cô bỏ nón, ngồi xuống mép giường và đặt cái giỏ mây bên cạnh. Cô để ý thấy nhà Minh hôm nay thu dọn gọn ghẽ hơn. Nghĩa là những tờ báo, những cuốn sách được đặt chồng lên nhau và đẩy sát vào vách. Cô hỏi:

- Hôm nay chủ nhật, anh không đi đâu?

Minh đã nấu sẳn ấm trà, rót ra mời Duyên và đáp:

- Tại tôi đoán trước là cô sẽ ghé thăm, thành ra ở nhà để chờ!

Duyên cảm động nói nhỏ:

- Em cảm ơn anh!

Nhân tiện, Duyên thêm:

- Hôm qua em cũng đi ngang qua đây, cả hôm kia nữa, nhưng anh không có ở nhà! Hôm nay em cũng cứ sợ là không gặp anh!

Minh kêu lên:

- Thế à! Tiếc quá! Hai hôm nay nếu biết là cô đến thì tôi đã ở nhà chờ! Công việc của tôi có bắt buộc phải lại tòa báo đâu!

Điều này thì Minh nói thật. Anh chỉ cần viết bài nộp cho chủ báo là xong nhiệm vụ. Sở dĩ gần đây, anh luôn luôn cố gắng hiện diện tại tòa soạn mỗi ngày là để tránh sự ngờ vực của đồng nghiệp. Họ đều là người thân, gặp nhau tay bắt mặt mừng nhưng Minh chẳng dám tin ai trong giai đoạn vàng thau lẫn lộn này. Họ chưa biết Minh là đảng viên Quốc Dân đảng, cho nên cái tông tích ấy anh cần phải giữ kín tối đa.

Duyên nói:

- Em cũng biết là ngày thường anh phải đi làm. Nhưng em cứ đi qua đây cầu may thôi! Vì đàng nào em cũng phải đi chợ!

Minh biết là Duyên nặng tình với mình lắm. Anh hỏi:

- Thế hôm nay cô có muốn đi ra bờ hồ không? Tôi đưa cô đi. Cả ngày hôm nay, cô muốn đi đâu cũng được!

Duyên nén tiếng thở dài:

- Em ghé thăm anh một tí rồi phải về ngay chứ làm sao đi được! Chả có cớ gì để nói với người ta! Gặp anh như thế này là đã vi phạm qui định rồi!

Minh chép miệng than:

- Phiền nhỉ! Thế công tác của cô bây giờ là làm gì? Người ta gọi cô xuống đây để nấu cơm thôi hay sao?

Duyên ngượng ngùng khai hết cho Minh nghe:

- Em còn bực hơn anh ấy chứ! Chả là thế này. Nhà thuốc Vĩnh An Đường chỉ là cái trạm giao liên thôi. Em đến đây một hai ngày rồi sẽ có người đưa đi chỗ khác. Nghe nói là Hải Phòng hay Hòn Gai gì đó. Đi làm công tác vô sản hóa trong giới thợ thuyền. Nhưng xuống đến đây thì bất ngờ tình hình khó khăn vì bị mật thám theo dõi. Thành ra họ nói với em là nán lại chờ ở hiệu thuốc Bắc. Chả biết đến bao giờ!

Minh cười chen vào:

- Thành ra bỗng dưng hiệu thuốc Vĩnh An Đường có người đi chợ thổi cơm!

Duyên cũng cười theo:

- Nhưng cũng nhờ thế mà em gặp được anh!

Minh bưng tách trà trao cho Duyên và bảo:

- Cứ như cô thì không khéo nay mai cô sẽ không còn ở đây nữa. Chừng ấy biết bao giờ mới gặp lại cô!

Duyên đỡ cốc nước, miệng nói “Em xin anh!” rồi buồn rầu cúi xuống bảo:

- Đêm qua nằm mãi chả ngủ được, em cũng nghĩ như anh. Nhưng em tự an ủi, em xuống Hà Nội chả có ai quen biết, gặp được anh như thế này cũng quí lắm rồi. Chuyện mai sau biết thế nào mà lường! Không khéo rồi em lại gặp chị Hậu em trong Hỏa Lò cũng chưa biết chừng …. À! Lâu nay hình như anh không về Hải Ninh? Hay là anh về mà không cho em biết!

- Vâng! Lâu rồi tôi không có về. Mẹ tôi có xuống tận đây thăm tôi hai lần. Mẹ tôi bảo lão lý Bân được lệnh theo dõi tôi, thành ra khuyên tôi đừng về! … Cô uống nước đi kẻo nguội!

Duyên đưa tách nước trà lên nhấp từng ngụm nhỏ. Minh nhắc lại:

- Vậy là cô không đi xem cảnh Hà Nội được! Tiếc nhỉ!

Duyên đứng dậy, khom người đặt tách nước trên bàn trước mặt Minh và nói:

- Thôi, em phải đi chợ. Nắng lên rồi. Em phải đi để kịp về thổi bửa trưa. Em xin phép anh!

Cô cúi xuống xach giỏ rồi cầm nón bước ra. Minh vội vàng ra trước, chạy xuống cầu thang đứng chờ Duyên. Anh đẩy cánh cửa nhìn hai bên theo thói quen, rồi quay lại bảo Duyên:

- Tiếc quá cô chả ngồi lâu được! Đành chờ đến chủ nhật sau vậy!

Duyên gật đầu, đội nón lên. Cô nhìn Minh tha thiết rồi bước nhanh ra đường.

Gần trưa, Duyên ở chợ về, đang ngồi lặt rau đay ở sân sau thì một người đàn bà tuổi khoảng ngòai ba mươi, gánh đôi quang gánh đi thẳng từ ngoài cửa chính vào tận bếp. Duyên ngẫng lên ngơ ngác nhìn nhưng chưa kịp hỏi thì ông Chu tất tả chạy vào và nói:

- Nhà về đấy ư? Sao chuyến này đi lâu thế? Tôi đợi sốt cả ruột!

Hóa ra đó là Tịnh vợ ông Chu, vắng nhà từ hôm Duyên đến đây. Tịnh đặt quang gánh, cầm nón quạt mồ hôi lia lịa. Chị không đáp lời chồng mà chỉ đăm đăm nhìn Duyên, Duyên buông bó rau vào rổ, đứng dậy, cúi đầu chào:

- Em chào chị!

Ông Chu giải thích với vợ:

- Các anh ấy gửi ở đây để chờ nhận công tác!

Sát tường có cái lu nước lớn chứa nước mưa, Tịnh bước lại, cầm cái gáo dừa múc nước uống ừng ực. Đi bộ từ nhà ga về đây, mồ hôi loang loáng trên mặt, dính bết vào hai bên tóc mai và đẫm ướt lưng áo. Chị buông cái gáo và hỏi:

- Lâu chưa? Mấy hôm rồi?

Ông Chu đưa cái khăn vải cho vợ lau mặt và đáp:

- Từ hôm nhà vừa đi!

Duyên chen vào:

- Thưa, ba tuần rồi!

Tịnh khẽ kêu lên kinh ngạc:

- Ba tuần rồi, lâu thế cơ à!

Cùng với câu nói ngắn ngủn ấy, Tịnh đăm đăm nhìn Duyên dò xét. Duyên tuy là cô gái quê, nhưng trẻ trung và mặn mà, đến ở nhà chị đã ba tuần lễ chỉ có chồng chị bên cạnh ngày đêm. Tịnh thoáng thấy lo lắng vì ngờ vực. Chồng Tịnh, ông lang Chu, vốn không phải là người đứng đắn, bằng chứng là đã từng bỏ vợ con để lấy Tịnh. Huống chi, ông Chu cũng chẳng phải là người có nhiệt tình cách mạng đích thực. Chỉ vì lấy Tịnh mà ông tham gia và nhận làm giao liên cho đoàn thể. Nhà thuốc Vĩnh An Đường là nơi tiếp nhận các đồng chí thoát ly để chờ bố trí công tác. Nhưng từ trước đến nay, mới chỉ có bốn người mà toàn là đàn ông. Mà bốn người ấy chỉ ngủ qua một hai đêm rồi đi ngay. Duyên là phụ nữ đầu tiên đến ở đây, lại kéo dài đến ba tuần lễ trong lúc Tịnh vắng nhà! Biết đâu, trong lúc nửa đêm về sáng, thằng chồng của Tịnh chả mò mẫm vào giường của Duyên!

Trong hòan cảnh trốn tránh như thế này, dù Duyên có bị ông Chu làm càn thì cô cũng đành cắn răng im lặng chớ chả nhẽ chạy đi kêu đội xếp để tự tố cáo lạy ông tôi ở bụi này

Ông Chu chưa kịp lên tiếng giải thích thêm về trường hợp của Duyên thì phải bỏ lên nhà vì có khách vào mua thuốc. Duyên tiếp tục ngồi xuống lặt rau. Tịnh đứng nhìn một chút rồi cũng kéo cái ghế thấp lại ngồi bên cạnh Duyên và gợi chuyện:

- Cô nấu gì đấy?

- Em nấu bát canh rau ngót với tôm nõn.

- Thế à! Tôi cũng đang thèm ăn canh rau ngót. Anh Tự với anh Cảnh cũng thích ăn canh rau ngót lắm. Lần nào ghé đây cũng đòi ăn cho bằng được! Cứ bảo ăn vào mát ruột!

Tịnh ngừng lại vì chợt nhớ ra là không nên tên những đồng chí lãnh đạo Thành Bộ. Duyên có biết Ngô Gia Tự và Nguyễn Đức Cảnh là ai đâu mà đề cập đến họ. Tịnh đổi đề tài:

- Quên chưa hỏi, cô tên gì?

- Em là Ly. Vũ Thị Ly.

- Thế có ai liên lạc, giao công tác gì chưa?

- Thưa chưa. Em chờ sốt cả ruột. Anh Chu bảo, đường dây giao liên bị mật thám theo dõi, tạm thời phải ngưng mọi hoạt động. Ai ở đâu, tạm thời cứ ở đấy!

Tịnh gật đầu nhất trí:

- Đúng đấy cô ạ! Đáng lẽ tôi về từ tuần trước kia. Mấy lần mua vé xe hỏa rồi, lại phải bỏ. Có hôm tôi ra ga, leo lên tàu rồi, lại phải leo xuống!

- Sao thế hở chị?

- Thấy có đứa khả nghi nó theo dõi, là mình phải tìm cách nào tháo thân ngay. Cũng có khi mình đóan nhầm, nhưng cẩn tắc vô áy náy! Tôi để ý thấy mật thám nó không bắt mình ở ga lớn. Nó chờ mình xuống ga nhỏ dọc đường nó mới bắt. Trường hợp anh Túc với chị Nghiêm đều như thế cả. Mật thám nó theo từ Ga Hàng Cỏ. Nó có biết chắc là người của mình nhưng nó chờ dọc đường mới bắt!

Rồi nhân tiện, Tịnh giảng cho Duyên những kinh nghiệm công tác của mình trong mấy năm qua, bao nhiêu lần thoát hiểm trong đường tơ kẽ tóc. Duyên ngồi yên lắng nghe, nghĩ đến Hậu trong Hỏa Lò, rồi lại miên man nghĩ đến chính mình, chả biết mai này trên đường cách mạng có thoát được màng lưới của mật thám hay không?

Hai chị em đang nói chuyện thì ông Chu từ nhà ngoài bước vào, lấy những gói hàng từ hai cái thúng của vợ, chất lên giường. Đó là những bao thuốc Bắc gói trong giấy báo, cùng với vài xấp vải, thêm ít khoai lang, đậu phọng chưa bốc vỏ. Nói chung, những thứ ấy chỉ để che mắt mật thám, làm như Tịnh thật tình đi buôn bán mà thôi.

Ông Chu mở một gói thuốc Bắc và quay sang hỏi vợ:

- Bao giờ nhà lại đi?

Sẳn mối ngờ vực trong lòng, Tịnh gắt nhẹ:

- Vừa mới về đến nhà, ngồi chưa nóng đít lại hỏi bao giờ đi!

Duyên mĩm cười không nói gì. Thấy Tịnh về, Duyên mừng lắm vì từ nay không phải sống một mình với ông Chu. Nhưng Duyên lại giật mình lo ngại. Nếu Tịnh giành lấy công việc đi chợ hằng ngày, thì Duyên không còn cơ hội nào để gặp Minh nữa!

Tịnh phủi tay đứng dậy và bảo:

- Cô ở nhà nấu cơm nhé! Tôi phải chạy đi một tí!

Dứt lời, Tịnh cầm nón bước nhanh ra cửa.

Ông Chu buông gói thuốc chạy nhanh theo vợ, gọi giật lại và hỏi:

- Nhà đi đâu đấy?

Tịnh đứng lại trong khung cửa, gắt nhẹ:

- Đi gặp người ta chứ còn đi đâu!

Ông Chu hiểu hai tiếng “người ta” tức là các đồng chí lãnh đạo Thành Bộ Hà Nội mà Tịnh có nhiệm vụ báo cáo tình hình ở biên giới. Nhưng ông Chu lại kéo hẳn vợ vào sau quầy thuốc và gắt lại:

- Chỉ được cái nhanh nhảu đoảng! Cơ quan đang bị theo dõi, không đến đấy được nữa. Anh Lê Tiến bị bắt rồi! Thành Bộ tạm thời mỗi người trốn một nơi, đến đấy là chui đầu vào rọ ư!

Tịnh lặng người đứng yên, ông Chu giục:

- Thôi. Vào nhà tắm đi, rồi ăm cơm!

Tịnh vẫn đứng yên, tay buông rơi cái nón xuống chân. Khá lâu chị mới run run hỏi lại:

- Anh Lê Tiến bị bắt rồi ư? Bị bắt ở đâu?

Cùng với câu hỏi não nuột ấy, chị nhớ lại những lần Lê Tiến cùng các đồng chí ở Tổng Bộ kéo lại đây ăn cơm và sôi nổi bàn chuyện hoạt động. Nhớ nhất là cái dạo Tiến công tác ở biên giới, sang Quảng Châu gặp Tịnh đang bị sốt rét nặng. Tiến nấu cháo cho Tịnh ăn mấy hôm liền trước khi Tiến trở về Hà Nội. Tiến thua Tịnh vài tuổi, có nụ cười và ánh mắt hiền hòa nhất trong đám những người cách mạng mà Tịnh từng giao tiếp. Cho nên cái tin Tiến bị bắt không khỏi làm Tịnh bàng hoàng trong khoảnh khắc. Bàng hoàng vì thương Tiến đã đành, mà còn vì sợ Tiến khai ra địa chỉ nhà thuốc Vĩnh An Đường, làm liên lụy luôn đến vợ chồng Tịnh. Tịnh nhắc lại:

- Có biết bị bắt ở đâu không?

- Nghe nói ở ngõ Lò Rèn!

Tịnh lại sửng sốt kêu lên lần nữa:

- Chết! Ngõ Lò Rèn ư? Thế thì ông Mão, ông Kiệt chắc cũng bị bắt cả rồi!

Chu yên lặng gật đầu. Nhà ông chính là trạm giao liên từng nhận Kiệt và Mão từ thôn quê thoát ly xuống đây – giống như Duyên hiện nay – tá túc ở nhà Tịnh cả tuần lễ trước khi bố trí về cơ quan in truyền đơn ở Ngõ Lò Rèn. Những cơ quan, những địa điểm hoạt động của đảng viên, thường thì chỉ có các đồng chí ở Thành Bộ được quyền biết. Riêng Tịnh vì là nhân vật giao liên nồng cốt, thường đưa người theo sự bố trí của Thành Bộ, nên Tịnh cũng nắm được một vài địa chỉ trong nội thành.

Tịnh thở dài cầm nón quay vào bếp. Duyên đã nhặt xong rổ rau, đang múc nước ra chậu để rửa. Thấy Tịnh, Duyên ngẩng đầu lên bảo:

- So với anh Chu, chị trẻ quá! Em thật không ngờ! Em cứ tưởng chị phải … lớn hơn nhiều! Hóa ra nom chị chỉ mới …. ngoài hai mươi!

Nghe lời khen mà Tịnh đoán là thật lòng, Tịnh bổng thấy có thiện cảm ngay với Duyên. Chị vui vẻ kéo khúc củi trong bếp ra, ngồi xuống nói chuyện với Duyên. Tịnh hãnh diện kể:

- Trẻ gì nữa cô ơi! Hơn ba mươi rồi! Ông bà mình có câu “gái ba mươi tuổi đã toan về già” cơ mà! Với lại, dầm mưa giãi nắng như tôi, trẻ thế nào được mà trẻ! Cô tính xem, ngủ bờ ngủ bụi, lắm khi phải trốn chui trốn nhủi, có đêm thức trắng không chợp mắt, giữ được mạng sống, không để lọt vào tay giặc là may rồi, chứ còn nói gì đến nhan sắc

Duyên gật đầu cảm phục:

- Chị giỏi thật! Giỏi mà gan dạ! Em phục chị lắm!

- Cảm ơn cô! Tôi bị sốt rét ngã nước mất hai năm, da cứ vàng bủng đi, nom sợ lắm. May mà có thuốc của anh Chu nên bây giờ mới dứt hẳn!

- Vâng. Nom chị hồng hào như thế này, ai mà biết được đã có thời chị bị sốt rét!

Tịnh rất hài lòng về lời khen kín đáo của Duyên. Chị đổi đề tài:

- Cô ở đây cả mấy tuần lễ, chắc cũng sốt ruột lắm, phải không? Trường hợp của cô là lâu nhất đấy. Những ngừờ khác chỉ ghé đây một hai hôm, nhịều lắm là một tuần lễ!

- Vâng! Anh Chu cũng bảo thế!

Duyên vừa dứt câu thì trên nhà có khách vào. Nghe tiếng nói chuyện giọng đàn ông quen quen. Tịnh đứng dậy khom người nhìn lên và nhận ra người khách ấy chính là một đồng chí đến gặp Chu để đưa tin tức. Duyên cũng đứng dậy tò mò trông lên và trố mắt theo dõi dù khoảng cách khá xa, không nghe rõ câu chuyện. Duyên chỉ nhận ra đó là anh chàng kéo xe cách đây ba tuần lễ đã đón cô từ nhà ga về đây. Tịnh bảo Duyên:

- Cô cứ làm việc đi, để tôi chạy lên xem!

Tịnh vào hẳn trong quầy, đứng sát bên chồng. Anh thanh niên kéo xe bỏ nón vải, tay cầm lọ thuốc y như một khách hàng đang nài trả giá. Anh nhìn ra cửa và khi biết chắc không có ai chung quanh, anh hạ giọng nói nhỏ:

- Anh chị bảo chị Ly sửa soạn đi Hải Phòng. Sáng mai tôi đem xe lại đón, kịp chuyến tàu hỏa sớm.

Ông Chu hỏi lại:

- Nhà tôi cần phải đưa chị ấy đi không? Nhà tôi vừa mới về …

Anh kéo xe lắc đầu:

- Không cần. Chị cứ ở nhà. Chị Ly đi một mình được rồi. Đảng bộ Hải Phòng sẽ bố trí người đón chị ấy ở sân ga.

Dứt lời, anh cầm nón úp lên đầu và quay ra. Chờ anh kéo xe đi khỏi. Tịnh quay xuống nhà, vui vẻ bảo Duyên:

- Cô có công tác rồi. Mừng cho cô, sáng mai đi Hải Phòng.

Duyên giật mình, nghĩ ngay đến Minh, sửng sốt kêu lên:

- Sáng mai hở chị?

- Ừ! Sáng mai sẽ có người đến tận đây đưa cô ra ga xe hỏa. Đến Hải Phòng sẽ có người đón ở dưới ấy!

Duyên vừa nhóm bếp, lặng người ngồi yên nhìn ngọn lửa bập bùng trước mắt. Cô nhớ lại những ngày mới đến đây, cô chỉ nóng lòng muốn đi công tác, bất cứ công tác gì, bởi thời gian chờ đợi làm Duyên mệt mỏi chịu không được. Nhưng rồi Duyên lại gặp Minh. Tự dưng cô thấy lưu luyến Hà Nội, chẳng muốn đi đâu nữa. Thôi thì cứ ở đây đóng vai người làm mướn không công cho ông Chu, miễn là mỗi chủ nhật đến ngồi với Minh là hạnh phúc lắm rồi. Hóa ra trời không chiều lòng người. Mới nối lại chút tình xưa đã vội chia ly. Duyên nao nao buồn muốn trào nước mắt. Ngẫm nghĩ một chút, Duyên mạnh dạn bảo Tịnh:

- Mai đi rồi ạ! Chị có vội gì không? Không thì chị nom hộ em nồi cơm. Em chạy ra chợ một tí!

Tịnh đang lấy quần áo, định đi tắm. Chị ngừng tay hỏi lại:

- Mua bán gì mà ra chợ? Đi công tác, đừng có khuân vác nhiều cho nặng!

- Không! Em chỉ mua vài thứ lặt vặt thôi.

Tịnh vắt cái quần đen và cái áo cánh nâu lên giây phơi, tiến lại sau lưng Duyên, ngồi xuống và bảo:

- Ừ! Cô để đấy cho tôi. Cô đi đi! Nhớ là đi đường xa, càng nhẹ nhàng càng tiện. Không phải lúc nào cũng xuôi chèo mát mái đâu! Tôi đã có lần lên xe hỏa, ngồi được một lúc rồi, lại phải giả vờ đi giải rồi bỏ trốn vì thấy có hai thằng khả nghi ngồi cùng toa với tôi. Tôi đoán là mật thám, nên phải tìm cách thoát thân. Hành lý tôi quăng hết cả lại

Duyên hững hờ đáp:

- Thế à chị! Em chả mang gì nhiều đâu! Có mấy bộ quần áo thôi!

Rồi Duyên đứng dậy, lấy nón đi thẳng ra cửa, không nói với ông Chu lời nào. Cô bước thật nhanh tới nhà Minh, mặc dù trong lòng không hy vọng gì gặp được Minh. Cô hồi hộp cắm đầu đi như chạy, không thèm nhìn phố xa hai bên.

Đến trước nhà Minh, Duyên ngước lên và mừng thầm vì thấy cửa sổ vẫn mở. Cô trông sang bên kia đường. Ông Sửu ngồi một mình đang cặm cụi khâu mũ. Cô mạnh dạn tiến lại, đẩy cánh cổng gỗ và leo cầu thang lên gác. Cô gõ mấy tiếng nhè nhẹ rồi nghe giọng của Minh hỏi vọng ra:

- Ai đấy?

Duyên hồi hộp ghé sát miệng vào cánh cửa và đáp:

- Em đây, anh Minh! Mở cửa cho em với!

Minh đang cởi trần ngồi viết bài, vội mặc áo, tiến lại tháo then cửa. Khi cánh cửa mở hẳn ra, anh sửng sốt thấy Duyên, vội kéo cô vào hẳn bên trong và đóng cửa lại. Anh ngơ ngác chưa nói được lời gì thì Duyên đã vội vàng bỏ nón và run run bảo:

- Em lại chào anh. Mai em đi rồi!

Vừa nói, Duyên vừa uể oải ngồi xuống mép giường. Minh kéo cái ghế lại gần hơn, ngồi đối diện Duyên và hỏi:

- Mai đi rồi ư? Đi đâu?

Duyên thở mạnh, giọng bùi ngùi:

- Chả cần biết là đi đâu! Chỉ cần biết là em đi rồi thì không biết có còn gặp anh được nữa hay không! Thành thử em mới đánh liều chạy lại đây!

Nói được có bấy nhiêu, Duyên thấy nghẹn ngào trong cổ, đôi mắt chớp nhanh như sắp khóc. Minh kéo cái ghế lại gần hơn chút nữa rồi xúc động nắm lấy bàn tay Duyên đang đặt trên đùi. Minh tưởng vậy là đã đi quá xa rồi, không ngờ Duyên rút bàn tay ra và bất ngờ ôm choàng lấy Minh, ghì thật chặt và ngả đầu trên vai Minh. Minh đứng dậy, kéo Duyên đứng lên theo. Anh nhè nhẹ lôi Duyên nằm xuống chiếc giường nhỏ trải manh chiếu cói đã sờn nát từng mảng khá lớn. Duyên mềm người buông xuôi. Hai người nằm nghiêng, quay mặt vào nhau. Duyên vừa cảm động vừa xấu hổ, hai mắt cứ nhắm nghiền lại. Minh thấy rõ toàn thân Duyên đang run rẩy trong tay anh. Lâu lắm, Duyên mới thủ thỉ:

- Sáng mai em đi sớm! Em cứ tiếc là mới gặp anh thì phải xa anh!

Minh mủi lòng nói:

- Thôi. Không nhắc đến việc ấy nữa!

- Vâng. Không nhắc đến nữa. Cả tuần nay em cảm động lắm. Đêm nằm, em nhớ anh không tài nào ngủ được! Anh đã cho em được những ngày hạnh phúc! Dù mai này ở đâu, làm gì, suốt đời em sẽ không quên được ngày hôm nay!

Bàn tay Minh xoa nhè nhẹ trên lưng Duyên qua lớp vải thô. Anh hỏi một câu thừa thãi:

- Hoãn lại, đừng đi vội, được không?

- Làm thế nào hoãn lại được. Lấy cớ gì mà hoãn?

Minh thọc hẳn tay vào hai lớp vải áo của Duyên. Anh thấy Duyên rùng mình nổi da gà khi tay anh đưa từ thắt lưng cô lên gần tới cổ. Rồi Minh nằm lùi xuống, úp mặt vào ngực Duyên. Duyên vẫn không có phản ứng gì và Minh cũng không tiến xa hơn nữa. Hai người cứ ôm ghì nhau một lúc, rồi Duyên buông ra và buồn bả ngồi dậy:

- Thôi, em phải về. Đi lâu quá không được!

Minh ngơ ngác hỏi:

- Ô hay! Mới lại đây có một tí mà đã đòi về!

Duyên lau nước mắt, nghiêm mặt nói:

- Em có muốn về đâu! Em muốn ở bên anh suốt đời, nhưng không được. Thôi thì đành vậy!

Minh cũng ngồi lên, thòng hai chân xuống sàn. Duyên cắn mạnh vào vai Minh và cầm nón lên:

- Thôi, em đi anh nhé!

Minh vẫn ngồi trên giường, giằng cái nón trong tay Duyên, quăng sang bên cạnh. Rồi hai tay anh nắm hai bàn tay Duyên, kéo cô xuống. Giọng anh tha thiết:

- Ở lại với anh một tí nữa! Biết bao giờ mới gặp lại!

Duyên xuôi theo, nằm úp trên người của Minh. Duyên bảo:

- Em đi vài hôm, chắc anh quên em ngay chứ gì! Đàn ông các anh có biết thương nhớ là gì đâu!

Nói dứt câu, Duyên trườn xuống, nằm nghiêng quay mặt về phía Minh. Minh quàng tay ôm lấy lưng Duyên, bàn tay từ từ đưa xuống đặt trên mông Duyên. Trước giờ chia ly, anh thấy cần phải nói với Duyên những lời nồng nàn vì biết chắc chuyện hai người sẽ không đi đến đâu. Anh bảo:

- Nếu em sợ anh là kẻ xa mặt cách lòng thì tốt nhất là em đừng đi. Cứ ở lại đây với anh

Duyên cảm động trào nước mắt:

- Được thế thì còn gì bằng! Em chỉ xin hứa với anh một điều rằng: Từ hôm nay, em xem như em đã có chồng. Nếu trời không cho em làm vợ anh, thì chả bao giờ em lấy ai nữa!

Minh biết đó là những lời chân tình xuất phát từ tâm khảm của Duyên làm anh, tuy không yêu Duyên lắm, mà vẫn thấy cảm động. Anh bảo:

- Anh hiểu lòng em rồi! Thôi thì đành phó thác cho định mệnh vậy!

Rồi hai người cùng im lặng. Một lúc sau, Duyên cương quyết vùng dậy giã từ. Minh lại níu kéo:

- Đàng nào sáng mai cũng đi rồi, ở luôn đây với anh đến tối. Về làm gì cơ chứ?

Duyên trố mắt nhìn:

- Ơ hay! Rồi ăn nói làm thế nào với người ta! Em bảo với chị Chu là em chạy ra chợ một tí rồi về ngay! Từ nãy đến giờ cũng lâu lắm rồi!

Minh chả bịết nói làm sao, đành bùi ngùi đưa Duyên xuống tận chân thang và ân cần dặn:

- Dù đi đâu, làm gì, cũng phải hết sức cẩn thận. Em cố gắng giữ gìn, mai kia thế nào mình cũng có ngày gặp lại nhau!

Duyên gật đầu, đội nón lên và đẩy cửa bước ra ngoài.

Những ngày cuối năm 1929, Tỉnh Đảng Bộ Quốc Dân Đảng Bắc Giang phải đối phó với một cơn khủng hoảng nặng nề. Khởi đầu là do xưởng chế bom tại nhà đồng chí Lương Văn Trạm ở làng Mỹ Điền bị phát nổ, chẳng những gây thiệt hại cho nhân mạng cho ba đảng viên đang cặm cụi tai chỗ, mà ngay sau đó, hàng loạt người quen vẫn thường lui tới nhà đồng chí Trạm đều bị theo dõi và sa lưới mật thám. Bắc Giang, cách Hà Nội hơn 50 cây số, là quê hương của Nguyễn Khắc Nhu, của chị em cô Bắc cô Giang, cho nên khí thế cách mạng lúc nào cũng chan hòa trong quần chúng. Đó là một trong những cái nôi chủ yếu đang vội vã chuẩn bị sản xuất vũ khí và in ấn truyền đơn cho ngày tổng khởi nghĩa gần kề.

Khi màng lưới mật thám cùng với hương lý địa phương rầm rộ bủa vây Bắc Giang thì Xừ Nhu đang ở Sơn Tây cùng với Nguyễn Thái Học. Cô Giang đang làm công tác binh vận trên Yên Bái. Còn Phó Đức Chính thì đang có mặt ở nhà Nguyễn Tiến, tức Lý Cả, bên làng Võng La, huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ, chờ gặp Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu để thảo kế hoạch cụ thể cho ngày trọng đại sắp tới. Phú Thọ cách Sơn Tây chỉ có con sông Đà. Làng Võng La nằm sát bờ sông, đại đa số dân chúng và ngay cả các hương chức trong làng đều là cơ sở nuôi dưỡng lực lượng chống Pháp, triệt để ủng hộ Quốc Dân Đảng. Vì vậy, Nguyễn Thái Học mới hẹn với Phó Đức Chính và Nguyễn Khắc Nhu họp mặt tại vùng an toàn này.

Hôm ấy, từ Sơn Tây, Xừ Nhu và Nguyễn Thái Học đón chuyến đò ngang qua sông. Họ đi chung một con thuyền, nhưng làm như không biết nhau để tránh chuyện bất trắc. Nguyễn Thái Học mặc quần áo nâu, đầu đội nón lá, đi chân đất, gánh hai thúng củ nâu xuống thuyền. Từ sau vụ Bazin, bị hồi đồng đề hình tuyên án khiếm diện, Nguyễn Thái Học bôn ba nay đây mai đó, liên tục cải trang, đóng đủ các vai trò từ trí thức đến lao động để qua mắt các trạm kiểm soát. Ở Bắc Ninh, có lần sau buổi họp bị lính khố xanh bao vây, ông điềm nhiên thay áo dài khăn đống, cắp cặp che ô, tự xưng là nho sinh Huyện cử xuống làm biên bản. Đám lính hòan toàn không ngờ vực. Ông lợi dụng lúc chúng không để ý, tìm đường tắt trốn ra khỏi làng. Hôm khác, ở Hải Dương, ông ngủ tại nhà một nông dân, bị mật báo, đích thân quan Huyện Kim Thành dẫn lính cơ xuống bắt. Ông thay quần áo nhà quê, đầu đội nón lá, vác cuốc ra làm việc chung với nông dân. Lính tráng hò hét sục sạo quanh nhà. Ông ung dung đi ngay trước mặt mà chúng không biết. Lần khác, ở Hải Phòng, chính ông làm người kéo xe cho đồng chí Nguyễn Văn Chấn vào thành phố. Bao nhiêu lần ông thoát hiểm trong đường tơ kẻ tóc nhờ sự bình tỉnh, gan dạ và ứng xử vô cùng nhạy bén. Có khi ông giả làm nhà sư đi khất thực. Có lúc ông làm thợ đóng cối len lỏi từ làng này sang làng khác. Bản tính tự tin lắm khi đến độ liều lĩnh, giúp ông hoạt động đắc lực cho đảng, nhưng cũng làm nhiều đồng chí khác lên ruột. Lê Hửu Cảnh thường lên tiếng trách ông:

- Vận mệnh của đãng, tính mệnh của hàng nghìn đồng chí nằm trong tay anh. Mong anh đừng khinh xuất!

Nói chung, ai cũng lo cho ông và cho đảng. Nhưng ông lại có lý luận khác. Ông thường nhắc đi nhắc lại:

- Lãnh đạo không thể cứ ngồi yên một chỗ mà chỉ tay năm ngón! Chúng ta làm cách mạng chứ chúng ta không nắm chính quyền. Nắm chính quyền thì có thể ra lệnh. Làm cách mạng thì phải đồng lao cộng khổ với quần chúng!

Ý nghĩ ấy luôn luôn dẫn giắt hành động của ông, khiến ông miệt mài lên đường, lao vào những chỗ hiểm nguy mà không đắn đo. Phải nói thêm rằng, Nguyễn Thái Học nhiều phen thoát nạn cũng vì được quần chúng hết lòng đùm bọc. Thậm chí trong trường hợp nguy kịch bủa vây tứ phía, có những người yêu nước thầm lặng còn sẳn sàng đóng vai Nguyễn Thái Học giả, hy sinh thay thế cho đảng trưởng.

Hôm nay, trên chuyến đò ngang, Nguyễn Thái Học giả làm người đi bán củ nâu vì nghề này đang rất thịnh lúc bấy giờ ở bất kỳ thôm xóm nào.

Nguyễn Khắc Nhu thì mặc áo the thâm, cắp tráp đen, giả làm thầy lang, vừa đi bắt mạch bốc thuốc, vừa xem bói cho thiên hạ. Qua sông, đặt chân lên bờ Võng La là yên lòng rồi vì làng này nằm trong vòng tay che chở của quần chúng.

Bước vào nhà Nguyễn Tiến, Xứ Nhu xăm xăm đi thẳng lên hè. Phó Đức Chính đang đứng chờ sẳn, đưa mắt nhìn ra đường, ở đó có những thanh niên chia nhau canh gác, vừa là thông tin vừa là bảo vệ cho cách yếu nhân của đảng. Xứ Nhu theo Phó Đức Chính vào nhà. Chủ nhân Nguyễn Tiến đang ngồi hút thuốc lào trên sập gụ, vội đứng dậy bước xuống đón:

- Quan bác đi đường có vất vả lắm không? Chúng em chờ sốt cả ruột!

Xứ Nhu đặt cái tráp trên bàn và cười thoải mái:

- Cảm ơn ông Cả hỏi thăm. Nhờ giời, êm xuôi cả! Anh Học cùng đi một chuyến đò với tôi. Nhưng lúc lên bờ tôi bảo anh ấy chậm lại một tí, để tôi dò đường trước. Chắc cũng sắp đến nơi!

Phó Đức Chính rót nước chè vào bát và góp tiếng:

- Cẩn thận như thế là phải! Tuần trước ở Hải Phòng, ông Tùng với ông Ngọc cùng đi công tác trên một chuyến xe hỏa. Ngồi chung một toa, nhưng người đầu này người đầu kia. Không ngờ mật thám theo dõi và nhận diện được ông Tùng. Chúng bắt trói ngay trên xe. Lúc chúng dẫn đồng chí Tùng đi ngang qua trước mặt ông Ngọc, đồng chí Tùng lờ đi làm như không quen biết. Nhờ thế mà ông Ngọc mới thoát!

Nghe nhắc đến việc đồng chí của mình bị bắt. Xứ Nhu buồn vời vợi. Cả ngày chỉ toàn là hung tin đến dồn dập. Ông toan lên tiếng thì Phó Đức Chính nhìn ông nói đùa:

- Bác Xứ đóng vai thầy bói mà chưa bói cho tôi một quẻ nào. Hay là nhân tiện đây, bác thử gieo thử một quẻ xem vận hạn tôi lành dữ thế nào!

Xứ Nhu cũng vui vẻ cười theo:

- Tôi gieo quẻ thì quẻ nào cũng thấy mình giết được giặc Tây! Ấy vậy mà thực tế thì mình chưa làm gì được nó, nó lại cứ giết hại người của mình! Thành ra tóm lại chả nên xem bói nữa!

Xứ Nhu lên ngồi xếp bằng trên sập gụ, đỡ tách nước chè từ tay Phó Đức Chính và hỏi:

- Chú sang đây lâu chưa?

Phó Đức Chính kéo cái điếu bát lại trước mặt, vừa vê thuốc lào vừa đáp:

- Thưa. Em ở đây đã hai hôm. Anh Lý Cả với em cứ lóng ngóng mãi, chỉ sợ anh với anh Học gặp chuyện bất trắc dọc đường!

Lý Cả tức Nguyễn Tiến chen vào:

- Vâng. Quả có thế. Ngày nào chúng em cũng bắt tụi nó ra đón ở bến Chài. Hôm qua, anh Chính giả vờ ngồi câu cá cả ngày ở ngoài ấy để chờ Quan Bác và anh Học.

Phó Đức Chính cười phụ họa:

- Ngồi câu cá cả ngày mà chả được con cá nào!

Xứ Nhu cảm động nhìn người đồng chí đáng tuổi em út mình:

- Đi câu kiểu Lã Vọng thì làm gì có cá!

Phó Đức Chính cười nhũn nhặn:

- Anh cứ nói thế chứ em làm sao sánh được với ông Khương Tử Nha ngày xưa! Vả lại, Lã Vọng xưa ngày rộng tháng dài, ngồi câu trên sông Vị đến 70 tuổi mới được vua đến đón về giao quyền cao chức trọng. Anh em mình làm gì có thì giờ như thế! Tình hình dầu sôi lửa bỏng, biến đổi từng ngày. Hôm nay còn gặp nhau, biết sao ngày mai thế nào!

Lý Cả cắt ngang:

- Ấy chết! Chớ có nói gở! Nó vận vào người!

Phó Đức Chính lắc đầu:

- Tôi chả tin! Gở với may cái gì, làm cách mạng thì chuyện bắt bớ là thường. Đã biết trước như thế cơ mà!

Phó Đức Chính gia nhập Việt Nam Quốc Dân Đảng ngay từ buổi đầu mới thành hình năm 1928. Lúc đó ông đã tốt nghiệp trừơng cao đẳng công chánh, là công chức của chính phủ Đông Dương Việt Miên Lào, làm việc tại Savanakhet. Sau vụ Bazin, hàng loạt nhân sự chủ chốt của đảng bị bắt và đưa ra hội đồng đề hình. Phó Đức Chính cũng nằm trong đó, nhưng vì là công chức, lại không có bằng chứng cụ thể dính dáng đến vụ ám sát Bazin, nên ông chỉ bị hai năm tù treo và bãi chức. Từ đó, ông thừơng đi sát bên cạnh Nguyễn Thái Học cùng với Lê Hửu Cảnh. Tính tình ông hợp với Nguyễn Thái Học và Xứ Nhu hơn là Lê Hửu Cảnh, bởi ông nóng nảy, chủ trương bạo động chớp nhoáng trong khi Cảnh tuy cũng gan dạ nhưng thường suy tính đường dài.

Giờ này thì Lê Hửu Cảnh không còn gần gũi bên cạnh đảng trưởng nữa. Phó Đức Chính trở thành cánh tay mặt, trực tiếp thảo kế hoạch tấn công trong ngày tổng khởi nghĩa sắp tới. Ký Con Đặng Trần Nghiệp cũng thường đi với đảng trưởng, nhưng từ mấy tháng nay anh phải gấp rút lo công việc chế bom ở Hà Nội.

Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính đang nói chuyện về tình hình mấy kho thuốc nổ bên Bắc Giang thì có người đàn ông gánh hai thúng củ nâu từ ngòai cổng xồng xộc tiến vào. Chủ nhà không nhận ra Nguyễn Thái Học, nhưng Xứ Nhu vui vẻ bảo Phó Đức Chính:

- Thôi! Anh Học đến kia kìa. Chờ anh ấy vào ta bàn luôn thể!

Nguyễn Tiến và Phó Đức Chính cùng ra hẳn ngoài hiên đứng đón, Nguyễn Thái Học đặt quang gánh trên thềm, tháo cái nón lá quạt mồ hôi phành phạch. Ông vốn là người tầm thước, đầy đặn. Thế mà mấy tháng nay lưu lạc trốn tránh, ăn ngủ bất thường làm mặt ông hốc hác thấy rõ. Hàm răng bẩm sinh đã bị hô, giờ đây càng đưa ra nhiều hơn vì má hóp sâu xuống. Chủ nhà mời ly trà nóng, nhưng đảng trưởng xua tay bảo:

- Uống cái này thì chả bõ khát! Để tôi ra hè làm gáo nước mưa!

Dứt lời, ông xăm xăm bước lại đầu nhà, lấy gáo dừa múc nước trong vại, ngửa cổ tu ừng ực. Ở thôn quê thì nhà nào cũng có những cái chum chứa nước mưa, nhất là những nhà lợp ngói, đặt máng xối cho chảy xuống để lấy nước nấu quanh năm. (Cha Ngạn này, nhà ngói, nhà lá gì mà không hứng nước mưa. Có khi nước mưa nhà lá còn ngon hơn nhà ngói nữa. Vì sao, nhà lá có mùi vị quê hương hơn!!). Đã khát rồi, Nguyễn Thái Học quay lên nhà, bắt đầu cuộc họp kín với Xứ Nhu và Phó Đức Chính. Lý Cả chờ Nguyễn Thái Học hút xong điếu thuốc rồi ân cần bảo:

- Quan bác đi tắm một cái cho mát nhé! Để em bảo nó lấy bộ quần áo của em, quan bác mặc tạm! Mồ hôi mồ kê nhễ nhại thế kia thì khó chịu lắm!

Nguyễn Tiến vẫn có cái lối nói chuyện thân tình như vậy với người trong đảng, mặc dầu lúc ngồi ghế lý trưởng, ông cũng ra oai trước mặt quần chúng y như bao nhiêu viên chức khác. Với những người lớn tuổi hơn như Xứ Nhu, hoặc ngay cả những người ít tuổi hơn nhưng được trọng vọng như Nguyễn Thái Học, ông đều gọi là quan bác, hai tiếng mà ông học được từ khi bắt đầu đi coi hát ả đào.

Nguyễn Thái Học cười xòa:

- Anh Cả cứ vẽ làm gì! Mặc thế này, ngộ nhỡ có phải chạy cũng tiện!

Thực sự thì nhiều hôm Nguyễn Thái Học mặc đến hai ba lớp áo màu khác nhau. Nếu nghi ngờ bị mật thám theo dõi, ông sẽ chạy vào một chỗ vắng, cởi lớp áo ngoài, để chúng khỏi nhận diện. Có khi ông gắn râu, đội nón, đeo kính râm hoặc kính cận. Nói chúng là thiên biến vạn hóa, mới có thể bôn ba hoạt động cách mạng khắp Bắc Kỳ. Ông chủ trương gần gũi đảng viên, cho nên hầu như chi bộ nào ông cũng có ghé thăm, ăn chung, ngủ chung với anh em để động viên tinh thần.

Ngồi trên sập gụ, Nguyễn Thái Học xoay người ngó ra cửa sổ, quan sát mảnh vườn rau. Những gốc mít cổ thụ, những cây bưởi um tùm, tỏa bóng mát quanh năm cho căn nhà xây lợp ngói. Cơ ngơi khá đồ sộ này là do công lao gây dựng của Nguyễn Tiến một phần và một phần nhờ thừa hưởng bổng lộc của cụ thân sinh vốn là một bá hộ giàu có nhất nhì làng Võng La.

Nguyễn Thái Học quay sang bảo Xứ Nhu và Phó Đức Chính:

- Mình bắt đầu đi thôi!

Nguyễn Tiến hiểu ý, gật đầu bảo mọi người:

- Thôi thế các bác cứ ở yên trong này. Để em ra cổng xem chúng nó canh gát như thế nào. Có động tĩnh gì thì các bác cứ phóng ra ngõ sau, có đến mấy lối nhỏ dẫn ra cánh đồng làng. Những anh em đang cuốc đất làm cỏ phía sau nhà, đều là người của mình cả!

Dứt lời, Tiến bước nhanh ra sân.

Trên sập gụ, ba người ngồi xếp bằng chụm đầu vào nhau, mặt ai cũng đăm chiêu nghiêm trọng. Phó Đức Chính cầm cái xe điếu, vạch những đường tưởng tượng trên mặt divan như người vẽ bản đồ chỉ đường. Ông trình bày kế hoạch tổng khởi nghĩa mà ông đã suy tính kỹ lưỡng từ mấy hôm nay, chỉ chờ gặp Nguyễn Thái Học và Xứ Nhu để xin ý kiến. Chính đang hăng say thuyết giảng thì Lý Cả từ ngoài sân chạy vào hân hoan báo tin:

- Đồng chí tham mưu trưởng binh vụ đến!

Trái với nét vui mừng của chủ nhà, Nguyễn Thái Học và Xứ Nhu cùng giật mình đưa mắt nhìn nhau. Rồi ngay sau đó, lập tức cả ba đều ngó ra sân.

Tham mưu trưởng binh vụ mà Lý Cả vừa nhắc đến là đồng chí Phạm Thành Dương, hạ sĩ quan không quân của Pháp mà người ta thường gọi là Đội Dương, hiện là trưởng ban Binh Vụ của Quốc Dân Đảng, thay thế đồng chí Trần Văn Môn đã bị mật thám bắt. Dương gia nhập Quốc Dân Đảng từ năm 1928, do Vũ Đình Phú, một đảng viên ở Hải Dương giới thiệu. Lúc ấy Dương đang theo học lớp hạ sĩ quan tại đồn Thông, Sơn Tây. Vì chủ trương cách mạng bạo động, nên Nguyễn Thái Học thấy sự đóng góp của nhà binh là tối quan trọng. Bởi vậy, ông đích thân đến gặp Phạm Thành Dương để vận động và mời tham gia Quốc Dân Đảng. Dương cảm động nhận lời đảng trưởng. Tổng Bộ giao trọng trách lớn cho Dương bởi cấp bậc “Đội tàu bay” của Dương được chỉ huy một số binh sĩ thuộc hạ. Quả nhiên Phạm Thành Dương không làm Tổng Bộ thất vọng. Ông tuyên truyền và kết nạp được một số khá đông binh lính khi ông về phục vụ tại phi trường Bạch Mai, Hà Nội. Ngoài nhiệt tình cách mạng, Dương còn được anh em nễ nang vì trình độ học vấn khá cao. Dương từng học trường Bưởi, trường y khoa trước khi đăng tên đi lính không quân. Tất nhiên theo qui chế thời ấy thì người Việt chỉ được theo học lớp hạ sĩ quan mà thôi. Vì thế, cấp bậc của Dương được kể là cao lắm rồi!

Nhưng có một điều mà Nguyễn Thái Học và Tổng Bộ không ngờ là lòng dạ của Dương đã thay đổi từ cuối năm 1929. Cả Vũ Đình Phú, cái người giới thiệu Dương cho Nguyễn Thái Học cũng đã phản bội đảng, làm tay sai cho Pháp!

Khởi đầu, động cơ thúc đẩy Dương từ bỏ Quốc Dân đảng xuất phát từ áp lực của thân phụ Dương, tức thầy giáo Phạm Huy Du dạy trường tiểu học Hàm Long. Khi biết tin con là đảng viên Quốc Dân Đảng, Du rùng mình sợ hãi, sợ cho con và sợ cho mình. Vội chạy đi báo ngay cho xếp của mình là Léonet, giám đốc nha tiểu học Pháp Việt, để nhờ ông này đưa tin cho mật thám biết. Mặt khác, giáo Du gọi Dương về, nghiêm khắc mắng:

- Mày mở mắt ra mà xem, từ đầu năm cho đến bây giờ, bao nhiêu đứa theo hội kín Quốc Dân đảng đều vào tù tuốt! Mày có chịu nổi đòn sang-ta hay không? Rồi còn liên lụy đến cả tao, đến cả anh em vợ con mày nữa! Tao là công chức nhà nước bảo hộ, mày mặc áo nhà binh, chả gì cũng đến chức đội! Ăn cây nào rào cây nấy! Sao lại giở trò làm giặc là thế nào? Liệu hồn thì bỏ ngay, tao giắt ra đầu thú để tránh hậu họa cho cả nhà!

Dương lúc đầu còn phân vân vì có lời thề với đảng. Nhưng giáo Du cứ thúc giục mãi làm Dương cũng nhụt chí. Giữa lúc đang giằng co thì một hôm, do lời đề nghị của chánh sở mật thám Amoux, phủ toàn quyền gửi giấy mời cha con Phạm Thành Dương lên trình diện. Dương hãi lắm, nhưng không ngờ đích thân toàn quyền Pasquier long trọng trao tấm huy chương cao quý của chánh quyền bảo hộ cho Phạm Huy Du, kèm với một hàm tước khá lớn, vốn chỉ dành cho những công bộc hết lòng phục vụ nhà nước bảo hộ Đại Pháp. Pasquier lại gia ân cho Phạm Thành Dương 1000 ngoại phí mỗi tháng. Bổng lộc trọng hậu ấy làm cho Phạm Thành Dương không thể quay lại với Quốc Dân đảng được nữa. Hai cha con hoan hỉ đón nhận, gập mình bái tạ và hứa sẽ xứng đáng đền đáp lại công ơn mưa móc của Phủ Toàn Quyền. Pasquier bảo Dương:

- Bỏ đảng giặc là đáng khen. Nhưng hợp tác với chính quyền bảo hộ để bắt cho bằng được Nguyễn Thái Học thì công lao của hai cha con mới thật sự là to lớn!

Từ đó, hai cha con Phạm Thành Dương nhận lời làm tai mắt chỉ điểm cho sở liêm phóng, giống như Vũ Đình Phú, người đã tiến cử Dương với Nguyễn Thái Học, cũng đã làm tay sai cho mật thám Pháp từ cả năm nay. Thế là Dương đã đổi lời thề trung thành với đảng thành lời thề trung thành với giặc!

Ngày 7 tháng 12 năm 1929, Vũ Đình Phú do được tin Nguyễn Thái Học sẽ về họp tại Võng La liền chạy đi báo tin cho mật thám và đề nghị việc này chỉ có thể giao cho Phạm Thành Dương, vì lúc này Dương chưa lộ mặt phản bội. Sở mật thám khen là diệu kế, cơ hội bằng vàng để bắt Nguyễn Thái Học và Xứ Nhu. Bàn bạc xong, Phú phóng về tìm Dương và bảo:

- Đây là cơ hội ngàn năm một thuở để anh lập công với ngài Tòan Quyền. Tôi đã báo cáo cho sở mật thám biết. Sở sẽ cử thanh tra Riner dẫn quân đến Võng La bao vây làng Võng La. Anh có nhiệm vụ phải đến nhà trước, cầm chân Nguyễn Thái Học ở nhà Lý Cả. Chờ Riner đưa lính ập vào bắt! Giờ này, bọn Quốc Dân Đảng chưa đứa nào biết anh đã bỏ chúng nó. Chưa đứa nào nghi ngờ gì cả, anh gặp chúng nó rất dễ. Nhưng tôi dặn anh cái này: Võng La cả làng đều theo giặc, ba phía có người canh gác. Chỉ có phía bờ sông là bỏ ngõ. Anh là lính mật thám cứ theo ngõ ấy mà vào nhà Lý Cả. Thể nào phen này cũng xong việc lớn! Anh mà bắt được Nguyễn Thái Học thì bổng lộc cha con anh không biết thế nào mà kể!

Phạm Thành Dương mừng lắm, gọi thêm một gã mật thám người Việt cho mặc đồ nhà binh đi kèm để lên tinh thần. Dương đi trước, Riner dẫn lính theo sau, tất cả đều đổ ra bờ sông tiến vào làng Võng La, huyện Thanh Thủy.

Vào nhà Lý Cả, Dương cố giữ vẻ điềm tỉnh. Các toán canh gác đều không chặn hỏi vì ai cũng tưởng Dương vẫn còn là nhân vật chủ yếu của đảng.

Trong nhà, Phó Đức Chính hỏi Nguyễn Thái Học:

- Anh gọi ông Dương đến đây ư?

Đảng trưởng vừa trả lời vừa đưa mắt nhìn Xứ Nhu dò hỏi:

- Không! Gọi đồng chí ấy đến làm gì?

Xứ Nhu cũng lắc đầu:

- Từ lâu rồi, tôi cũng chả liên lạc với đồng chí ấy!

Phó Đức Chính ngơ ngác hỏi:

- Anh em mình hẹn nhau ở đây, không có ai biết, tại sao đội Dương lại biết mình ở đây nhỉ?

Xứ Nhu hạ giọng chen vào:

- Mà đội Dương lại đem theo cả người lạ nữa! Như thế thì phải đề phòng!

Xứ Nhu dứt câu thì đội Dương cũng vừa tới thềm, dựng xe đạp, bước vào cửa, gật đầu kính cẩn chào và giới thiệu người quân nhân lạ mặt:

- Thưa các anh. Đây là một đồng chí trong lực lượng cách mạng, tôi mới kết nạp. Từ nay anh sẽ là người bảo vệ, đi bên cạnh tôi.

Phải nói rằng, trong số những kẻ bỏ đảng làm tay sai cho giặc thì Phạm Thành Dương là đứa táo bạo nhất. Những kẻ khác thì chỉ dám giấu mặt chỉ điểm, cung cấp tin tức cho mật thám. Còn đội Dương thì ngang nhiên dẫn mật thám đến bắt đồng chí cũ của mình như trường hợp hôm nay. Sở dĩ Dương làm thế là vì món tiền ngoại bổng ngàn đồng hàng tháng và nhất là vì món tiền thưởng mà Amoux hứa sẽ ban cho Dương nếu mật thám bắt được các lãnh tụ Quốc Dân đảng. Dương vốn mê cờ bạc, nợ nần thường xuyên chồng chất. Dạo ấy, Dương đang học trường thuốc, túng tiền bỏ sang Vientien làm thư ký cho tòa Khâm Sứ bên Lào. Vì tung tay quá trớn, Dương lại trốn nợ, bỏ về Hà Nội và đang lính không quân, thường gọi là lính tàu bay ở Bạch Mai. Nhờ học lực khá, Dương được cất nhắc cho đi học lớp hạ sĩ quan ở Sơn Tây. Thời ấy, qui chế sĩ quan chỉ dành cho người Pháp. Quân nhân Việt Nam lên đến chức Đội, tương đương với trung sĩ sau này, là cao cấp nhất rồi!

Hôm nay Phạm Thành Dương đến gặp Nguyễn Thái Học ở Võng La – giống như môn đồ Juda hai ngàn năm trước, ước hẹn với người Do Thái gặp Chúa Giêsu sau bửa tiệc ly, để Juda ra ám hiệu cho người Do Thái bắt Chúa – Dương cố ăn nói tự nhiên, nhưng không giấu được nét lúng túng nhất là ánh mắt chứa đầy lo lắng. Gã thanh niên mặc quân phục cũng lấm lét nhìn quanh xem có người phục sẳn trong hai căn buồng bên không.

Xừ Nhu kéo Phó Đức Chính đứng dậy, sang ngồi cùng băng với Nguyễn Thái Học để nhường cho Dương và đàn em ngồi đối diện. Nguyễn Thái Học điềm tỉnh hỏi:

- Tình hình các chi bộ quân nhân trong phạm vi lãnh đạo của đồng chí dạo này ra sao? Có biểu hiện xuống tinh thần hay giao động tí nào không?

Dương mạnh dạn đáp:

- Thưa anh tốt cả! Tinh thần cách mạng cao lắm. Chỉ chờ lệnh của Tổng Bộ là nhất loạt đứng lên! Xưởng chế bom ở ấp Thái Hà cũng đã sản xuất được 700 quả, hiện đang chôn ở Gò Điện Khí. Khi Tổng Bộ ban lệnh chiếm phi trường Bạch Mai, lực lượng cách mạng sẽ có sẳn bom mà dùng!

Phó Đức Chính chen vào:

- Đồng chí cần thường xuyên đi sát anh em, nuôi dưỡng ý chí quật khởi của anh em. Nhà binh thì lúc nào cũng nóng nảy, nhưng có khi lại chóng nguội. Đồng chí dặn anh em phải cẩn thận kẻo sơ hở là chết cả nút đấy!

Dương nhũn nhặn đáp:

- Vâng. Trách nhiệm của tôi thì lúc nào cũng phải lo! Tổng Bộ đã quyết định ngày tổng khởi nghĩa chưa? Phía binh vụ chúng tôi cần biết trước để định liệu cho chắc ăn!

Câu hỏi của Dương càng làm cho Nguyễn Thái Học nghi ngờ. Ông đáp:

- Tình hình này chắc phải hủy bỏ kế hoạch tổng khởi nghĩa, rút vào bí mật! Có gì thì Tổng Bộ sẽ thông báo ngay cho đồng chí!

Xứ Nhu ngồi giữa, tay bưng tách trà, nhưng mắt cứ đăm đăm theo dõi hai người đối diện. Mười phần, ông đã tin chắc chắn mười phần, hai kẻ ngồi trước mặt ông không còn là đồng chí mà kẻ thù, kẻ thù cực kỳ nguy hiểm bởi đã nắm biết được khá nhiều bí mật của Tổng Bộ. Bên tai Xứ Nhu, tiếng nói chuyện vẫn vang lên, nhưng ông không nghe thấy gì cả. Ông đang lo âu, tìm cách ứng xử, bởi ông biết rõ Dương và gã đàn em đều có súng ngắn giấu trong áo. Còn phía ông, cả ba người đều tay không, chống sao nổi súng đạn nếu chẳng may Phạm Thành Dương ra tay.

Phạm Thành Dương vừa đàm đạo với đảng trưởng, vừa nóng lòng nhìn ra sân. Gã thanh niên bên cạnh cũng sốt ruột nhìn đồng hồ hai ba lần. Cử chí ấy cùng với sắc diện xanh xám của Dương cho Xứ Nhu biết chắc Dương đã hẹn với mật thám, kéo lực lượng đến vây nhà. Ông liền đưa bàn tay bấm vào đùi Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính rồi hỏi thẳng Phạm Thành Dương:

- Ai báo cho đồng chí biết Tổng Bộ hôm nay họp ở đây?

Dương đã chuẩn bị sẳn từ dọc đường nên nói ngay:

- Thưa cả tuần nay tôi vẫn có ý định báo cáo tình hình binh vụ lên Tỉnh Bộ, nhưng không liên lạc được. May quá, hôm kia tôi gặp Ký Con ở Hà Nội. Tôi hỏi thăm. Đồng chí ấy bảo tôi lên đây!

Nguyễn Thái Học trừng mắt nhìn thẳng vào đôi mắt Đội Dương, khiến gã sợ hãi cúi xuống. Ông nghiêm khắc bảo Dương:

- Đồng chí Nghiệp cũng không biết chúng tôi ở đây!

Biết đã bị bại lộ, Đội Dương tái mặt, run rẩy thò tay vào trong áo. Gã thanh niên bên cạnh cũng đứng bật dậy. Xứ Nhu cấp tốc phản ứng. Ông co chân đạp mạnh cái bàn về phía kẻ thù làm cả hai ngã ngửa ra nền nhà. Ông quay sang bảo Nguyễn Thái Học:

- Chạy đi! Thằng này phản đảng rồi!

Ba người xô ghế bỏ chạy. Xứ Nhu phóng ra cửa chính, Nguyễn Thái Học lao vào buồng rồi nhảy qua cửa sổ. Phó Đức Chính vì vướng cái băng ghế, chưa kịp tẩu thoát thì bị đội Dương bắn một phát vào ngực. Ông ngã lăn ra, nằm im không nhúc nhích. Đội Dương tưởng ông chết rồi nên bỏ ông nằm đó để đuổi theo Xứ Nhu. Còn gã đàn em thì rượt theo Nguyễn Thái Học, bắn mấy phát sau lưng ông, nhưng đều trúng vào thân cây mít sau nhà.

Ngoài cổng, Lý Cả và anh em canh gát nghe súng nổ vội kéo vào tiếp cứu. Họ đỡ Phó Đức Chính dậy, dìu ông đi nhanh ra hông nhà, băng bó tạm thời rồi giấu kín trong đống rơm, vì biết chắc lực lượng mật thám tiếp viện sắp kéo đến. Chính cố nhịn đau, bảo mọi người:

- Thằng đội tàu bay Phạm Thành Dương phản đảng! Thế nào mật thám cũng đến đây. Các anh em chia nhau đi bảo vệ anh Học và Xứ Nhu, đưa hai anh ấy ra khỏi làng càng nhanh càng tốt. Đi đi! Nhanh lên! Mặc kệ tôi!

Họ vâng lệnh, khiêng Chính đặt vào chỗ kín đáo nhất, giữa hai đống rơm khổng lồ, phủ đầy rơm che kín toàn thân Chính rồi phân tán đi tìm Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu. Nhưng họ không tìm thấy ai, bởi Xứ Nhu len lỏi băng ngang vườn nhà người ta và lần ra được bến sông. Ở đó có những con thuyền của đồng bào yêu nước đang chờ sẳn để đưa ông đi.

Trong khi Xứ Nhu chạy ra hướng bờ sông thì Nguyễn Thái Học được hai thanh niên dẫn về phía cánh đồng làng. Họ chia tay Nguyễn Thái Học dưới khóm tre già và dặn:

- Anh cứ men theo con đường này, chỉ một quãng nữa là sang làng khác!

Nguyễn Thái Học nói cám ơn rồi lầm lũi bước đi trên con lộ đất chạy ngoằn ngoèo sát lũy tre bao bọc Võng La. Sau lưng đã nghe văng vẳng những tiếng hò hét, tiếng bước chân chạy dồn dập và dăm ba tiếng súng thị oai của lực lượng mật thám từ trong làng vọng ra. Một ông già đang dập đất, thấy Nguyễn Thái Học đi ngang, vội vác vồ chạy vào và lôi Nguyễn Thái Học vô hẳn dưới bóng mát của bụi tre rậm rạp. Ông không biết Nguyễn Thái Học là ai, nhưng đoán là người đang bị săn đuổi bởi kinh nghiệm bắt bớ đã từng xảy ra nhiều lần trong mấy năm gần đây. Ông bảo:

- Cậu cởi quần áo ra. Lấy quần áo của tôi mà mặc! Nhanh lên! Chúng nó sắp đuổi đến bây giờ!

Miệng nói, tay thoăn thoắt cởi nút áo rồi tụt luôn cái quần đen bạc, đưa cho Nguyễn Thái Học. Rồi ông để mình trần, vận quần đùi rách, ngồi ngay trên bờ cỏ, lấy ấm tích trà và điếu cày ra, thản nhiên như đang nghỉ giải lao. Nguyễn Thái Học mặc bộ quần áo của ông lão xong, quay lại nhìn ông cụ gật đầu nói:

- Cám ơn cụ có lòng!

- Cậu làm việc nước, đánh đuổi giặc Tây, tôi phải cảm ơn cậu mới đúng. Tôi già cả, vô dụng mất rồi! Tôi chỉ biết cầu Trời khấn Phật che chở cho những người như cậu!

Nguyễn Thái Học nhìn ông cụ, gật đầu như nói cảm ơn lần nữa rồi đội nón lên, vác vồ ra dập đất thay cho ông lão. Vừa đập, ông vừa lui dần về phía bờ ruộng xa xa và rút hẳn khỏi địa phận làng Võng La. Ông ghé nhà một đồng chí, cải trang làm lái buôn trâu để xuôi dần xuống phía Nam sang Hải Phòng.

Khi Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu đã đi khỏi Võng La rồi, lực lượng mật thám của Riner mới từ mé sông đổ bộ lên, tiến vào nhà Nguyễn Tiến. Phạm Thành Dương chạy ra báo cáo tình hình, Riner dậm chân mắng:

- Thế là lại hỏng việc rồi! Chúng bay có súng trong tay mà ba đứa chúng nó ngồi ngay trước mặt, tại sao không bắn được đứa nào!

Dương bực mình đáp:

- Nhưng tôi đã hẹn với xếp là tôi chỉ cầm chân chúng nó độ mười lăm phút, rồi xếp phải xông vào bắt. Tại sao xếp đến trễ như thế?

Riner quay lại nhìn gã đàn em người Việt đứng bên cạnh và phân trần:

- Tại cái thằng phải gió này này. Nó dẫn đường mà chính nó đi lạc! Từ bờ sông đến đây chỉ có một đoạn đường thật ngắn, mà nó cứ đưa tao đi lanh quanh mãi! Không khéo mày thông đồng với giặc cũng chưa biết chừng!

Gã đàn em tái mặt. Nhưng chưa kịp lên tiếng cải chính thì Riner đã ra lệnh triệu tập tất cả dân làng cả ngày hôm ấy. Hương lý, tuần phiên chạy đôn chạy đáo hò hét khắp hang cùng ngõ hẽm, ra cả cánh đồng lôi cổ những nông dân ngoài ấy về tập họp tại sân nhà Lý Cả. Giữa những tiếng khóc tiếng than của vợ con Nguyễn Tiến và họ hàng, một thằng mật thám lấy bá súng trường, đập liên tiếp vào mặt, vào bụng Nguyễn Tiến và nghiến răng bảo:

- Thằng Học với thằng Nhu đâu? Không bắt được hai đứa chúng nó thì mày ốm đòn!

Dĩ nhiên chúng không bắt được Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính. Riner uất ức chỉ thị đàn em trói nguyên gia đình ông bá hộ, thân phụ cùng với anh em của Lý Cả, Lý Hai, giải hết về nhà giam Phú Thọ để khai thác! Riêng Phó Đức Chính được các đồng chí địa phương cứu chữa tận tình rồi đưa ông ra khỏi làng. Viên đạn vẫn nằm yên trong lồng ngực cho đến ngày ông ngửa mặt nhìn lưỡi dao máy chém chặt đầu ông trên Yên Bái sau cuộc khởi nghĩa thất bại!

Trên đường sang làng Mỹ Xá, Phủ Nam Sách, Tỉnh Hải Dương, Nguyễn Thái Học vô cùng uất ức. Ông không ngờ Phạm Thành Dương lại phản bội trắng trợn đến như vậy. Chính ông đã kết nạp nó, đề nghị Tổng Bộ giao chức vụ lớn cho nó, hóa ra ông dùng lầm người! Rồi đây, chỉ nay mai, tai họa sẽ ập đến giây chuyền bởi Dương biết quá nhiều bí mật của đảng. Vì vậy, vừa đến một đồng chí ở Mỹ Xá, Nguyễn Thái Học lập tức cho người liên lạc về Hà Nội, báo cho các tổ đảng, các xưởng chế bom, các cơ sở in truyền đơn và đảng kỳ, phải ngưng hoạt động và di chuyển ngay, bởi tất cả những điểm ấy, Phạm Thành Dương đã biết hết. Cẩn thận như thế mà vẫn không kịp. Cuối tháng 12, Dương đưa mật thám đến xưởng chế bom ở căn nhà số 7b, ngõ Vĩnh Hồ, phố Đại La. Tuy không bắt được ai, nhưng chúng tịch thu toàn bộ vũ khí của đảng. Rồi Dương lại dẫn chúng đến Gò Điện Khí ấp Thái Hà, đào được 700 quả bom chôn sẳn ở đó để tấn công phi trường Bạch Mai. Tệ hơn nữa là chính những chi bộ binh đoàn mà Dương đã gầy dựng trong đơn vị, giờ này Dương bán đứng hết cho Pháp. Người thì bị bắt, kẻ bị lột lon và đày đi xa. Dương lại chỉ điểm cho Tây đến vây bặt Ủy ban Quân Chính tỉnh Hải Phòng, giữa lúc đảng bộ đang họp, không ai chạy thoát. Rồi để lập công lĩnh tiền thưởng, Dương đi xa hơn nữa, cho mật thám biết một tin cực kỳ quan trọng: Quốc Dân Đảng sắp sửa Tổng Khởi Nghĩa, lật đổ chính quyền bảo hộ!

Trước sự phá hoại thảm khốc của Phạm Thành Dương, Tổng Bộ phải cấp tốc lập tòa án cách mạng do Xứ Nhu ngồi ghế chánh thẩm. Ông tuyên án tử hình hai cha con: Phạm Huy Du và Phạm Thành Dương, giao cho Ký Con thi hành. Ký Con Đặng Trần Nghiệp lúc ấy đang quán bận lo việc chế bom tại Hà Nội. Tổng Bộ dự trù khi tổng khởi nghĩa tại các tỉnh thì Ký Con sẽ tung ra các toán đặc nhiệm ném bom gây rối tại Hà Nội để làm nghi binh, cho nên trọng trách của Ký Con lúc này quá nặng nề. Nhận chỉ thị của Xứ Nhu, Ký Con liền giao việc xử tử Phạm Huy Du cho Nguyễn Văn Nho, em ruột của Nguyễn Thái Học, năm ấy mới 17 tuổi. Còn Phạm Thành Dương thì được ủy cho Nguyễn Xuân Huân vốn là tay xạ thủ có kinh nghiệm. Huân nhận lời ngay bởi Huân thuộc nhóm ôn hòa của Lê Hữu Cảnh, đang sợ bị Tổng Bộ nghi ngờ. Huân và Nho gặp nhau bàn kế hoạch rồi hăng hái lên đường vào ngày giáp Tết.

Tháng 12 năm 1929 và tháng giêng năm 1930 có thể coi là thời kỳ đen tối nhất của cách mạng. Nhờ sự chỉ điểm của Phạm Thành Dương, nhất là bản tin tổng khởi nghĩa, mật thám tung toàn lực lượng khám xét và bắt bớ khắp các tỉnh miền Bắc. Những mất mát lớn lao liên tục ấy, làm tổng bộ càng quyết tâm phải tổng khởi nghĩa, bởi chẳng còn lựa chọn nào khác. Ngày 26 tháng 1 năm 1930, Nguyễn Thái Học lại từ Bắc Ninh quay về làng Võng La, Phú Thọ, họp hội nghị khẩn cấp do tình thế đòi hỏi. Mật thám Pháp sau hơn một tháng càn quét Võng La, bắt đi hàng loạt nhân sự cũng như cảm tình viên của đảng, tin chắc tinh thần cách mạng nơi đây đã bị xóa tan, nên lơ là không ngó đến nữa. Nắm được tâm lý ấy của địch, Tổng Bộ mới quyết định quay về đây. Chỉ có 20 đại biểu, nhưng tất cả đều đồng thanh quyết chiến, Nguyễn Thái Học rưng rưng phát biểu:

- Cuộc đời là cả một canh bạc. Gặp canh bạc đen, người ta có thể thua sạch vốn! Gặp thời thế không chiều mình, đảng chúng ta có thể tiêu hao hết lực lượng. Bao nhiêu anh em đang chết lạnh lùng mòn mỏi trong các nhà giam. Chúng ta thà quyết một trận tử chiến. Nếu có chết đi thì cũng để lại cái gương phấn đấu hy sinh cho người sau nối bước!

Một đại biểu hăng hái nói lớn:

- Chúng ta đã ở vào cái thế cưỡi cọp, không thể lùi lại được nữa! Nhưng chúng ta không thua! Đề nghị đảng trưởng ban lệnh tổng khởi nghĩa!

Tất cả đều nhất trí, Nguyễn Thái Học yêu cầu biểu quyết. Mọi cánh tay đều giơ phắt lên không một chút dè dặt.

Thế là hội nghị phân công cụ thể, bố trí lực lượng tấn công các đồn binh Pháp cùng cách nhân vật chỉ huy mỗi vùng. Về ngày giờ tổng khởi nghĩa thì tổng bộ sẽ thông báo sau.

Sau hội nghị, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính lại phân tán đi các nơi và hẹn gặp lại ở làng Mỹ Xá, tĩnh Hải Dương để định ngày cử sự.

Những ngày kề cận tổng khởi nghĩa, Nguyễn Thái Học tạm ẩn cư ở một ngôi chùa trên núi Yên Tử, Bắc Giang. Tại đây từ thế kỷ thứ 13, vua Trần Nhân Tông đã bỏ triều đình đi tu và lập ra phái Thiền Tôn còn gọi là Trúc Lâm. Cảnh chùa hết sức trang nghiêm hùng vĩ và thanh khiết. Nhưng Nguyễn Thái Học chẳng còn bụng dạ nào mà ngắm cảnh. Hơn hai năm bôn ba vất vả, lần đầu tiên Nguyễn Thái Học cảm thấy hết sức chán chường về hành vi của những kẻ bội phản. Phạm Thành Dương là vết thương nhức nhối, đau đớn nhất, chẳng những đưa bao nhiêu đồng chí vào tù mà còn làm hỏng hết kế hoạch tấn công nội thành của đảng. Từ sụ uất hận Phạm Thành Dương,ông đâm ra nghi ngờ lây cho những kẻ đã từng đi lính cho Tây, trong đó có Lê Hửu Cảnh, một cánh tay đắc lực trước đây của Tổng Bộ. Vì thế, ông bàn với Xứ Nhu rồi cho gọi riêng Ký Con rồi chỉ thị cho Ký Con thủ tiêu Lê Hửu Cảnh cùng Nguyễn Đôn Lâm cho chắc ăn! Xứ Nhu đồng ý nơi đảng trưởng về quyết định này vì Xứ Nhu cũng sợ Cảnh trở mặt như Phạm Thành Dương. Ông nghĩ: Cảnh đã một thời đi lính một, sang tận Pháp, thì biết đâu gần đây chẳng bị Pháp mua chuộc giống như Phạm Thành Dương. Cái ấn tượng xấu về Cảnh vốn đã in sâu trong đầu Xứ Nhu ngay từ hội nghị Đưc Hiệp, khi Cảnh bọ coi là đứng đầu phe ôn hòa, gồm người mà Tổng Bộ thường gọi là “nhóm cải tổ”. Khuynh hướng này thật ra lúc đầu chiếm đa số. Đó là cánh nhà văn, nhà báo, chủ trương tính chuyện đường dài, nâng cao dân trí quần chúng trước khi bước sang giai đoạn tổng nổi dậy lật đổ thực dân Pháp. Nhưng phe này bị bắt gần hết sau vụ ám sát Bazin nên nhóm Lê Hửu Cảnh trở thành thất thế vì thiểu số, chỉ còn Lê Hửu Cảnh, Nguyễn Xuân Huân, Nguyễn Đôn Lâm, Lê Tiến Sự và Nguyễn Tiến Lữ. Nguyễn Thế Nghiệp cũng có thể xếp chung vào khuynh hướng, nhưng Nghiệp hiện đã sang Vân Nam và đã thành lập được một đạo quân hải ngoại, sẳn sàng tăng viện cho quốc nội khi hửu sự.

Mặc dầu có lệnh của Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu, nhưng Ký Con không nở xuống tay hạ thủ Lê Hửu Cảnh. Một phần vì Ký Con hiểu tấm lòng của Cảnh. Lại thêm cô Giang lúc nào cũng tin tưởng lập trường của Cảnh và hễ cón dịp, đều ca ngợi Cảnh trước mặt Ký Con, cho nên Ký Con mới lờ đi, không quan tâm đến Cảnh nữa. Chỉ có Nguyễn Đôn Lâm thì bị Cai Hồng bắn một phát vào bả vai để cảnh cáo!

Trên núi Yên Tử, một buổi chiều se lạnh tàn đông, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính bàn đi tính lại rồi quyết định đêm mùng 10 tháng 2 năm 1930 tức 12 tháng giêng năm Canh Ngọ là giờ lịch sử của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Hôm ấy có cả Ký Con Đặng Trần Nghiệp cũng được đảng trưởng gọi lên giao công tác. Bốn người ngồi sau thảm cỏ phía sau chùa, dưới bóng mát của một tàn cây cổ thụ, giữa triền dốc thoai thoải trông xuống thung lủng. Trong chùa, tiếng tụng kinh gõ mõ vẫn vang ra đều đặn. Hai nhà sư trẻ lảng vản canh gát phía cổng chính, cầm chổi quét sân và giả vờ chăm sóc những luống hoa. Nguyễn Thái Học nắm tay Xứ Nhu và Phó Đức Chính rưng rưng bảo:

- Đã đến giờ chúng ta phải chia tay để làm việc lớn, đem cái chết đền nợ nước! Chốc nữa họp xong, nhờ anh Nhu lên ngay Phú Thọ, Yên Bái, thông báo cho các đơn vị trên ấy. Anh Chính thì sang Đoài rồi báo ngay cho các đồng chí ở vùng Hải Dương, Kiến An, truyền miệng lệnh tổng khởi nghĩa của Tổng Bộ. Nhớ là đêm mùng 10 rạng 11 tháng này!

Phó Đức Chính đăm chiêu hỏi:

- Còn Hà Nội thì sao? Anh về Hà Nội hay ở lại đây?

Nguyễn Thái Học đáp:

- Như đã phân công, tôi phụ trách Bắc Ninh, Đáp Cầu, Phả Lại!

Phó Đức Chính nhắc lại:

- Thế còn Hà Nội? Không làm gì ở Hà Nội thì không gây được tiếng vang!

Nhắc đến Hà Nội, Nguyễn Thái Học quay sang nhìn Ký Con và chợt thở dài như sắp khóc. Ông đưa bàn tay sờ những sợi râu mọc lởm chởm dưới cằm, lan lên cả hai bên má. Bạn bè, người thân từng chung sống hoặc giao tiếp với Nguyễn Thái Học những năm ông còn ngồi ở ghế trường sư phạm hay cao đẳng thương mại, giờ này nếu gặp lại, chắc sẽ phải giật mình kinh hãi vì không thể nhận ra ông được nữa. Nguyễn Thái Học của cách mạng phong trần ngày nay, chẳng còn dấu vết gì của Nguyễn Thái Học thư sinh thuở trước, cái thuở mà bằng hửu ai cũng nể nang cái tính gan lì của chàng sinh viên hay đùa nghịch một cách hồn nhiên. Mới có mấy năm mà tưởng chừng như đã xa xăm lắm! Nam Đồng Thư Xã rồi khach sạn Việt Nam,những buổi họp mặt đồng chí, ai cũng tranh nhau phát biểu một cách dân chủ. Tấm lòng yêu nước của mỗi người như dàn trải trên trang giấy trắng. Tất cả đều xa hẳn rồi, không bao giờ còn trở lại được nữa

Nghe nhắc đến Hà Nội, Nguyễn Thái Học nao nao nhớ lại biết bao nhiêu kỷ niệm từ lúc còn thuê chung căn gác trọ với Hồ Văn Mịch ở phố Đổ Hữu Vị. Người bạn hiên ngang của trường cao đẳng thương mại, hăng say vận động thành lập chi đoàn học sinh, giờ này đang bị lưu đày ngoài Côn Đảo cùng với bao nhiêu đồng chí trong giới trí thức Hà Thành. Mịch lại vốn yếu sức, lại nhuốm bệnh lao phổi, chẳng biết có ngày còn quay về đất liền nữa hay không?

Nguyễn Thái Học cầm một nhánh cây khô nhỏ như chiếc đũa, vạch xuống đất và ngậm ngùi nói:

- Cái kế hoạch ban đầu của chúng ta là đặt trọng tâm vào Hà Nội. Có thể nói, lấy được Hà Nội là lấy được cả nước, cả Đông Dương. Đánh chiếm Hà Nội thì lập tức ta sẽ huy động tòan thể đồng bào kéo nhau ra chật đường chật phố để ủng hộ quân cách mạng, tạo khí thế làm rung chuyển nước Pháp, áp lực Pháp phải trả độc lập cho nước ta. Chính vì thế mà ta ra sức tuyên truyền vận động trong giới nhà binh, đặc biệt là các cấp chỉ huy người Việt ở nội thành. Đồng chí Trần Văn Môn đã đóng góp bao nhiêu công lao cho đảng. Chỉ riêng phi trường Bạch Mai, đồng chí Môn đã kết nạp đến 22 đảng viên, đều là cai, đội. Rồi các trại lính khố xanh, đồn thủy, ta có đến 200 đảng viên nòng cốt đều là các cấp chỉ huy, sẽ vận động thuộc cấp quay súng lại, bắn vào quân thù. Các xưởng chế bom ở nội thành cũng đã chế được hơn một nghìn quả, chỉ chờ Tổng Bộ ban lệnh tổng khởi nghĩa!

Ngừng lại một chút cho bớt xúc động, đảng trưởng lại tiếp:

- Đùng một cái, đồng chí Môn bị bắt, ta cho Phạm Thành Dương lên thay. Thật là trời không chiều lòng người: Ai có ngờ đâu cha con thằng Dương phản đảng bán nước! Bao nhiêu chi bộ của ta bị nó tố giác, bật gốc hết. Các đồng chí nhà binh, người thì bị bắt, nguời bị lột lon tống đi xa! Các kho vũ khí cũng bị Dương chỉ điểm cho mật thám Pháp đến tịch thu hết!

Nguyễn Thái Học ngừng nói vì quá xúc động. Xứ Nhu chen vào:

- Vậy là ở Hà Nội kể như ta tay trắng!

Nguyễn Thái Học không đáp, ông quay sang Ký Con:

- Bản án hai cha con đội Dương thi hành chưa?

Ký Con đáp:

- Thưa anh. Cách đây một tuần, chú Nho và anh Huân đã bắn chết giáo Du rồi. Bắn ngay ở trước cửa nhà giáo Du ở ngõ Hồng Phúc. Nhưng riêng đội Dương thì chưa hạ thủ được vì dạo này nó trốn biệt! Hôm đám ma bố nó, nó cũng không dám về đưa ma! Tôi cho người điều tra thì hình như từ sau vụ Võng La, nó được đưa hẳn sang làm thanh tra cho sở Mật Thám Bắc Việt!

Xứ Nhu nói:

- Tội thằng ấy to lắm! Có thể tha cả nước, nhưng riêng thằng ấy thì không thể tha được! Để nó sống thì nó sẽ làm hại biết bao nhiêu người yêu nước!

Nguyễn Thái Học gật đầu hỏi Ký Con:

- Lê Hửu Cảnh thì sao?

Ký Con đã chuẩn bị trước nên đáp ngay:

- Tôi đã cho người theo dõi, nhưng chưa thuận tiện!

Phó Đức Chính giờ này vẫn đau nhói trong ngực vì viên đạn của Phạm Thành Dương vẫn đang nằm trong đó.Ông góp ý với Ký Con:

- Thằng Đội Dương cần phải trừng trị trước vì để đó ngày nào là còn nguy hại cho đảng ngày ấy. Nó đã dám công khai rút súng bắn anh Học, anh Nhu và tôi. Gần đây, nó đích thân dẫn mật thám đi bắt người và vũ khí của ta. Để nó ngang nhiên như thế mà mình không trừng trị thì uy tín của đảng sứt mẻ nhiều lắm!

Ký Con gật đầu:

- Vâng. Em biết! Không xử tử nó thì các đồng chí bị nó hại sẽ trách Tổng Bộ!

Chính lại thêm:

- Còn Cảnh. Tuy Tổng Bộ có nghi ngờ Cảnh vì chủ trương trung lập của Cảnh. Nhưng từ hội nghị Đức Hiệp đến bây giờ là hơn nửa năm, chưa có dấu hiệu gì là Cảnh phản bội, làm tay sai cho Tây!

Vừa nói, Phó Đức Chính vừa đưa mắt nhìn Nguyễn Thái Học dò xét phản ứng. Nhưng đảng trưởng không nói gì. Xứ Nhu cũng im lặng. Chính nói thêm:

- Dạo ấy Tổng Bộ cũng nghi ngờ cả Nguyễn Xuân Huân, vì Huân đứng trong phe của Cảnh. Nhưng mới đây, chính Huân đã cùng với chú Nho xử bắn giáo Du, bố đội Dương

Nhu trầm ngâm nói:

- Trước mắt, phải xử án Đội Dương đã. Vì nó vẫn tiếp tục dẫn mật thám đi bắt người của ta. Đảng ta trắng tay ở Hà Nội cũng vì nó!

Nguyễn Thái Học nén tiếng thở dài, đặt bàn tay lên vai Ký Con và tha thiết bảo:

- Đúng như anh Nhu vừa nói. Lực lượng cách mạng của chúng ta ở Hà Nội kể như không còn gì nữa. Tôi giao Hà Nội cho đồng chí. Đêm tổng khởi nghĩa, đồng chí điều động đội quân cảm tử ném bom những địa điểm quang trọng trong nội thành để làm nghi binh và cầm chân quân giặc trong thành. Để chúng nó đừng đem quân đi tiếp viện những nơi khác!

Ký Con khẳng khái nhận lệnh:

- Vâng. Hà Nội giờ này thật ra chỉ còn Đòan Ám Sát là chưa bị sứt mẻ. Chúng em đã có kế hoạch cả rồi. Tổng Bộ cứ tin ở chúng em! Chúng em sẽ tiếp chiến đến chết mới thôi!

Xứ Nhu cảm động nhìn Ký Con:

- Lúc nào Tổng Bộ cũng tin tưởng ở cậu. Cậu là người dũng cảm và trung kiên! Đảng viên ai cũng như cậu thì thằng Tây cút khỏi xứ này rồi!

Ký Con lại hỏi:

- Tổng Bộ đã liên lạc với đạo quân của anh Nghiệp bên Vân Nam chưa ạ? Em nghe bảo lực lượng của anh Nghiệp bên ấy đông đảo lắm. Anh ấy mà kéo quân về kịp thì anh em mình bên này lên tinh thần lắm!

Nguyễn Thái Học gật đầu:

- Xong cả rồi! Thế nào anh Nghiệp cũng về!

Thế là bốn người chia tay xuống núi. Ai cũng cảm thấy hôm nay có thể là buổi họp mặt cuối cùng!

Ba hôm sau, Nguyễn Thái Học đến Đáp Cầu, đặt bộ chỉ huy tại nhà một đồng chí trọng tuổi. Đáp Cầu và Phả Lại là hai căn cứ quân sự quan trọng của Bắc Ninh, nơi đây Việt Nam Quốc Dân Đảng đã thành lập được các đội vũ trang cách mạng khá hùng hậu. Nhưng kề ngày khởi nghĩa thì Phạm Thành Dương cho mật thám đến bắt hết, thành ra giờ này, khi Nguyễn Thái Học về điều động thì chẳng còn tay súng nào. Ông đành phải trang bị gấp vũ khí cho các đảng viên dân sự liều mình tử chiến. Nguyễn Thái Học nhớ lại, ngay từ hội nghị Đức Hiệp hồi tháng 5 năm 1929, sau khi đại hội biểu quyết Tổng khởi nghĩa, ông đã phân vân bàn với Xứ Nhu và Phó Đức Chính về vai trò của Phạm Thành Dương. Ông nói:

- Chỉ nên cho đội Dương phụ trách binh đoàn ở Hà Nội mà thôi. Không nên cho ông ấy biết hết lực lượng của ta ở các binh đoàn khác. Ngộ nhỡ ….

Xứ Nhu ngắt lời:

- Cái ấy cũng khó, bởi Tổng Bộ đã giao cho Đội Dương nắm trưởng ban Binh Vụ của đảng thì tất nhiên ông ấy có quyền và có bổn phận phải nắm vững tình hình lực lượng vũ trang của đảng. Anh không nghe các đồng chí trung ủy vẫn gọi Dương là Tham Mưu Trưởng đấy ư? Tham Mưu Trưởng thì phải nắm mọi kế hoạch quân sự chứ!

Nguyễn Thái Học đăm chiêu ngồi yên.Ông nhớ đến công lao gây dựng của Trần Văn Môn mà chả hiểu tại sao ông thấy Đội Dương không đáng tin cậy như Đội Môn. Ông cứ lo có ngày Dương sẽ thay đổi, hoặc vì tâm địa phản trắc hoặc vì hòan cảnh đưa đẩy. Mà Dương phản bội thì lực lượng quân sự của Quốc Dân Đảng kể như tan tành hết!

Giờ này thì mọi ưu tư của Nguyễn Thái Học đã thành sự thật. Đội Dương đã quét gần hết tiềm năng quân sự của đảng, chẳng phải riêng gì thủ đô mà trên khắp cả lãnh thổ miền Bắc. Nguyễn Thái Học về đây, làm nhiệm vụ chỉ huy binh đoàn Đáp Cầu và Phả Lại, nhưng có còn binh đoàn nào nữa đâu mà điều động! Thôi thì tình thế éo le, đành nương theo mà hành sự. Ông tức tốc cho người đi Hải Dương và Bắc Ninh, ước hẹn với các đảng viên dân sự ở Lương Tài, Gia Bình và Nam Sách, hẹn ngày 12 tháng 2, tấn công một điểm chỉ huy duy nhất là căn cứ của Pháp ở Đáp Cầu. Súng đạn, bom nội hóa, gậy gộc, dáo mác, có cái gì xài tạm cái ấy, miễn là tỏ được dũng khí của người cách mạng hiến thân cho độc lập của xứ sở! Than ôi! Thân làm cách mạng sắt máu mà giờ này đẩy ra mặt trận toàn những đảng viên vốn chỉ là thư ký,giáo học, thương gia với thợ thuyền thì kết quả đã biết trước rồi!

Hôm sau, Nguyễn Thái Học đang họp với chi bộ Đáp Cầu thì cô Giang đột ngột xuất hiện. Đôi nhân tình gặp nhau nhưng chẳng còn bụng dạ nào để nói chuyện yêu đương trong giờ phút dầu sôi lửa bỏng này. Cô đã nhận được lệnh tổng khởi nghĩa và cô được phân công sẽ có mặt ở sân ga Yên Bái để đón các đồng chí từ vùng xuôi xuống trước ngày nổ súng. Trong khi chờ đợi, còn gần một tuần nữa, cô vẫn làm công tác liên lạc với Tổng Bộ, đồng thời cùng chi bộ phụ nữ chuyển vũ khí bằng đường hỏa xa từ Hà Nội và Phú Thọ lên Yên Bái. Chi bộ phụ nữ do cô Bắc thành lập, gồm 15 người, chủ yếu là tuyên truyền, giao liên. Rất đắc lực trong thời gian gần đây vì ít bị mật thám chú ý.

Một buổi chiều, cách đây 3 hôm, cô Giang đang nhận vũ khí ở nhà một đồng chí ở Phú Thọ thì bất ngờ nghe tiếng chó sủa ngoài ngõ. Trông ra, thấy Lê Hữu Cảnh đang bước vào sân nhà. Chủ nhà giật mình ái ngại, định giấu mấy khẩu súng ngắn và lựu đạn xuống gầm giường, nhưng cô Giang chặn lại và quả quyết nói:

- Anh Cảnh chớ ai mà sợ! Tôi bảo đảm cho anh Cảnh!

Chủ nhân lưỡng lự đáp:

- Tôi cũng biết anh Cảnh là người của Tổng Bộ trước đây. Nhưng anh Học đã có lời cảnh cáo!

Cô Giang gắt:

- Mặc kệ anh Học! Anh cứ tin tôi!

Chủ nhà im lặng đứng chờ trong buồng. Cô Giang thì bước hẳn ra hè. Cảnh xăm xăm bước lên hiên, tháo mũ làm quạt. Mồ hôi nhễ nhại trên mặt và đẫm ướt hết lưng áo. Cảnh mặc Âu phục, sơ mi trắng đục, quần ka-ki vàng, đầu đội nón trắng, tay xách cập da đen, trông y như thầy thông thầy phán ở tòa sứ hay dinh toàn quyền!

Cô Giang hỏi ngay:

- Anh ở đâu lại đây? Đã biết tin gì chưa?

Cảnh bước hẳn vô traong nhà, nét mặt đăm chiêu, bắt tay chủ nhân. Đó là đồng chí Tộ trước cũng đi lính cho Tây một thời gian ngắn, bị thương giải ngũ về làng, gia nhập Quốc Dân Đảng phụ trách huấn luyện quân sự cho anh em cách mạng ở Phú Thọ. Gặp Cảnh, Tộ dè dặt chào:

- Anh Cảnh! Lâu quá mới gặp!

Cảnh khẽ nhếch mép cười rồi trả lời cô Giang:

- Tin gì là tin gì? Lệnh Tổng Khởi Nghĩa phải không? Tôi biết rồi cho nên mới chạy đi tìm chị. Định lên tận Yên Bái, nhưng may quá hôm qua gặp chị Bắc, tôi mới biết chị ở đây!

Chủ nhà bưng cho Cảnh cốc nước, rồi ông đứng bên cạnh không tham gia câu chuyện. Cảnh uống cạn ly nước, đặt xuống bàn. Anh moi trong túi áo ra một tờ giấy, chữ viết tay, in thạch, có những chỗ màu mực chưa khô, bị nhòe vì thấm ướt. Cảnh mở ra đặt trên bàn, xòe bàn tay đập vào tờ giấy và run run nói:

- Chị đọc đi! Truyền đơn của Đông Dương cộng sản đảng thả khắp nơi, báo cho mọi người biết là Quốc Dân Đảng sắp khởi nghĩa khắp các tỉnh Bắc Kỳ! Chúng nó đâm sau lưng mình!

Cô Giang sửng sốt chộp tờ giấy, trố mắt hỏi lại:

- Anh bảo sao? Cộng Sản tố cáo mình khởi nghĩa ư? Lẽ nào lại thế? Họ đang đánh Tây với mình mà!

Chủ nhà tò mò lại bên cô Giang, ghé mắt nhìn. Cảnh gắt:

- Chị ngây thơ quá! Tin người quá! Chị đọc đi!

Cô Giang lại sốt ruột hỏi:

- Anh có chắc là Cộng Sản giải truyền đơn này không?

Cảnh nhấn mạnh:

- Tôi có bằng cớ! Chính tôi bắt gặp! Tôi biết cái đứa giải truyền đơn!

Cô Giang sửng sờ đứng lặng một chút rồi nói:

- Thế thì tôi phải đi ngay. Anh cho tôi tờ truyền đơn này. Tôi đi tìm anh Học, báo cho anh ây biết!

Cảnh cay đắng:

- Anh Học thì lúc nào cũng tin rằng Cộng Sản là đồng minh! Tôi đã cảnh cáo mãi mà anh ấy không nghe tôi.

Cô Giang không biết nói gì hơn. Cô nhớ lại quả thực có lần ở Vĩnh Yên trong bửa cơm đạm bạc dọc đường, Cảnh đã nói với Nguyễn Thái Học:

- Rồi anh xem. Sẽ có ngày mình phải đánh cả Tây lẫn Cộng Sản!

Vốn tin phục Cảnh, giờ đây cô càng thấy Cảnh có tầm nhìn rất xa. Cảnh dịu giọng bảo:

- Chị đi gặp anh Học, chớ có nói là tôi đưa cho chị tờ truyền đơn này. Tôi dám cả quyết với chị phía Cộng sản cố ý hại chúng ta, thông báo công khai cho Tây biết kế hoạch của ta. Chị gặp anh Học, chị phải nói là chính chị có bằng chứng. Đừng có nhắc đến tên tôi vì anh Học và anh Nhu không tin tôi!

Cô Giang gật đầu:

- Tôi biết. Anh chả phải dặn.

Rồi cô lấy nón, lấy giỏ, chuẩn bị lên đường sang Đáp Cầu gặp Nguyễn Thái Học. Cô ưu tư hỏi Cảnh:

- Anh định đi đâu bây giờ?

Cảnh nghĩ đến căn gác trọ của Minh, bùi ngùi nói:

- Có lẽ tôi sẽ quay về Hà Nội. Gần đến ngày khởi nghĩa rồi. Tổng Bộ không giao công tác cho tôi, thì chắc là ngày ấy tôi sẽ ở Hà Nội, phụ một tay với đội quân cảm tử của Ký Con!

Cô Giang nhìn Cảnh thương cảm. Điều này thì cô đã biết rồi, bởi Cảnh có bàn với cô cách đây ít lâu trên Yên Bái. Cô lại còn biết cả việc Cảnh phải trốn khỏi Hà Nội cả tháng nay vì bị Phạm Thành Dương tố cáo chung với các binh đoàn Quốc Dân Đảng thuộc chi bộ nhà binh.

Cô Giang bảo:

- Hà Nội bây giờ nguy hiểm lắm. Mật thám đang càn quét. Anh phải hết sức cẩn thận!

Cảnh cay đắng tiếp lời:

- Cũng may, thằng đội Dương ra mặt công khai phản đảng, cõng rắng cắn gà nhà. Chứ nếu không thì những vụ bắt bớ gần đây, Tổng Bộ sẽ nghi cho tôi tố cáo!

Cô Giang chợp mắt nói:

- Thôi. Anh bỏ chuyện ấy đi. Tôi hiểu anh. Nhiều đồng chí hiểu anh. Chúng ta cùng vì nước, vì đảng. Anh đừng buồn!

Cảnh nguôi ngoai phần nào, hạ giọng nói:

- Chị gặp anh Học, nói với anh ấy là phải tìm đủ mọi cách giết ngay thằng đội Dương đi. Nó còn sống ngày nào thì đảng còn vỡ ngày ấy!

Cô Giang ngắt lời:

- Bố đội Dương là giáo Du bị xử tử rồi. Cả giáo Phú, thông đồng với bố con đội Dương, cũng bị trừng trị rồi!

Cảnh xua tay:

- Hai lão già ấy không quan trọng. Thằng đội Dương mới cần phải trừ ngay! Nó không giấu mặt nữa. Nó công khai giắt mật thám đi bắt người của mình. Tôi mà tình cờ gặp nó ở đâu tôi cũng liều mạng với nó!

Cô Giang nhét khẩu súng vào đáy giỏ, phủ tờ báo lên trên rồi đặt vào giỏ hai nải chuối, mấy bó ngang và một chục oản, y như người đang trên đường đi lễ chùa. Cô chào chủ nhà, chào Cảnh rồi thoăn thoắt bước ra sân. Cảnh cũng chào chủ nhà rồi chạy theo cô Giang, anh dặn thêm:

- Quên! Tôi cho chị cái số nhà này,ở ấp Thái Hà. Chỉ một mình chị biết thôi. Chị nhớ giấu kín hộ tôi. Vạn bất đắc dĩ, hễ chị có việc cần tìm tôi thì chị đến đấy.

Cảnh đọc địa chỉ, cô Giang nhẩm lại vài lần, rồi bảo:

- Tôi nhớ rồi! Thôi, anh đi bằng an!

Ra tới cổng, hai người chia tay nhau trên con đường làng, mỗi ngừời đi về một hướng

Ở Đáp Cầu, Nguyễn Thái Học đang kiểm điểm lại nhân sự để ban lệnh hành quân trong đêm khởi nghĩa, thì hai đại biểu phụ trách Hải Dương và Kiến An hộc tốc tìm đến khẩn khoản xin hoãn lại thêm bốn ngày. Nghĩa là thay vì 11 tháng 2, xin đổi lại 15/2 để kịp tập trung lực lượng.

- Tổng Bộ thông cảm cho chúng tôi. Lệnh tổng khởi nghĩa mãi đến hôm kia mới nhận được. Anh em thì phân tán mỏng, mỗi người ẩn núp một nơi, không thể nào triệu tập về ngay một chỗ được. Xin cho chúng tôi thêm 4 hôm nữa mới tập họp được.

Nguyễn Thái Học hết sức bối rối vì lệnh đã ban rồi, những nơi khác đã nhận được. Việc liên lạc lúc này quá khó khăn, thay đổi ngày giờ chắc chắn sẽ gặp trở ngại cho nhiều địa phương. Tuy nhiên, vì các đồng chí Hải Dương, Hải Phòng và Kiến An cứ nằn nì mãi, đảng trưởng đành phải nghe theo. Ông tức tốc sai người đi thông báo các nơi, nói rõ hoãn ngày tổng tấn công.

Phó Đức Chính lúc ấy đang ở làng Nam An, huyện Tùng Thiện tỉnh Sơn Tây, nhận được lệnh mới, vội cho người đi thâu đêm sang Sơn Dương gặp Nguyễn Khắc Nhu.

Ở lại Đáp Cầu, Nguyễn Thái Học như ngồi trên đống lửa. Lưới mật thám trùng trùng điệp điệp khắp nơi, giao liên đi lại quá khó khăn, chẳng biết lệnh hoãn khởi nghĩa có đến mỗi đơn vị được không? Giữa lúc đang nôn nao như thế thì cô Giang tìm đến. Cô rút trong cạp quần tờ truyền đơn đưa cho Nguyễn Thái Học và bảo:

- Đông Dương Cộng Sản Đảng đang rãi truyền đơn khắp nơi, báo tin mình sắp khởi nghĩa …

Nguyễn Thái Học trợn mắt, đập bàn quát to:

- Tôi không tin! Vì có thể nào anh em cộng sản làm như thế được!

Cô Giang vừa mệt mỏi vừa bực bội trước thái độ cả tin của người yêu. Cô nén tiếng thở dài, bùi ngùi bảo:

- Em vội lắm, không có nhiều thì giờ! Em đi suốt đêm về đây báo tin này cho anh biết hòng nhắc anh đề phòng. Bây giờ em phải ngược lên Yên Bái ngay. Đồng chí Thanh Giang đang chờ em ở sân ga. Thôi, anh lo công việc của anh đi! Em cứ nhớ lời em hôm nay: Đây là truyền đơn của phía Cộng Sản, gián tiếp thông báo cho Tây biết mình sắp khởi nghĩa! Việc lớn không thành cũng chỉ vì mình bị bán đứng!

Nguyễn Thái Học vò mảnh giấy ném vào góc nhà và bảo:

- Dạo này cô nói chuyện giống luận điệu của Lê Hửu Cảnh quá! Ông ấy lúc nào cũng thì Cộng Sản, hở một tí là tìm cách đặt điều cho người ta!

Cô Giang thấy nghẹn trong cổ nhưng cố giằng lại để khỏi lớn tiếng với đảng trưởng, nhất là bên cạnh hai người còn có ba đồng chí nữa đang lặng thinh theo dõi. Với cô, Cảnh lúc nào cũng là một đàn anh dũng cảm và tư cách. Huống chi Cảnh là người đầu tiên mạnh dạn đề nghị Tổng Bộ tác hợp cho cô và Nguyễn Thái Học trở thành vợ chồng chính thức.

Đời cô sẽ chẳng bao giờ quên được cái buổi chiều mùa hạ năm ngóai ở đền Hùng, sau chuyến công tác đường dài ở Phú Thọ về miền xuôi. Nguyễn Thái Học mệt quá, ngồi tựa gốc cây, ngủ thiếp đi. Cô ngồi bên cạnh quạt cho người yêu, vì trời tối dần, từng đàn muổi trong các khóm cây xông ta bay vo ve liên tục. Nguyễn Thái Học được trời xếp đặt cho cái lợi điểm là rất dễ ngủ, ngồi đâu cũng ngủ được, dù đầu óc đang vô cùng vướng bận. Nhờ dễ ngủ nên tinh thần ông rất minh mẫn. Mệt đến đâu, chỉ cần nhắm mắt mười lăm phút hay nữa giờ, ông trở nên tỉnh táo như thường.

Nhìn cô Giang ngồi quạt cho Nguyễn Thái Học dưới gốc cây đa cổ thụ bên cạnh đền Hùng, Lê Hửu Cảnh cảm động, nhè nhẹ lùi bước, trở lại chỗ Phó Đức Chính và Ký Con đang nằm nói chuyện. Chính hỏi Cảnh:

- Sao không gọi anh Học vào ngủ? Khuya quá rồi. Mai còn lên đường sớm!

Cảnh nhoài người nằm xuống bên cạnh Ký Con và đáp:

- Hai cậu ra mà xem! Nhìn cảnh tượng ấy, nỡ nào mình phá đám!

Rồi Cảnh nêu lên ý kiến xin Tổng Bộ đứng ra công nhận hai người nên duyên. Ký Con bảo:

- Anh Học có vợ rồi mà!

Cảnh nói:

- Có rồi! Ai chả biết! Nhưng mà người vợ do ông bà thân sinh cưới cho Học lúc còn nhỏ ở nhà quê. Học đã viết thư xin ly hôn rồi! Với lại, tình vợ chồng mà có thêm tình đồng chí thì càng dễ hoạt động hơn!

Phó Đức Chính và Ký Con cũng đồng ý. Chính chỉ nhắc:

- Việc này cũng phải xin ý kiến bác Nhu!

Cảnh gật đầu:

- Đành là thế rồi! Nhưng anh Nhu thì chắc cũng sẽ nhất trí thôi!

Cảnh nói đúng. Xứ Nhu thì bao giờ cũng ủng hộ cho cô Giang. Ba chị em cô Bắc, Giang và Tình chính là đoàn viên của Nguyễn Khắc Nhu ở phủ Lạng Thương trước khi đoàn thể này sát nhập vào VNQDĐ. Cả ba đều là niềm hãnh diện của Xứ Nhu bởi nhiệt tình công tác có thừa. Họ là những nữ đảng viên của Quốc Dân Đảng, trái với điều lệ ban đầu của đảng là chỉ thu nhận đàn ông.

Hôm sau, Cảnh gặp riêng cô Giang và cho biết ý định của Cảnh, đã được sự tán thành của Phó Đức Chính và Ký Con Đặng Trần Nghiệp. Cô Giang cảm động lắm, rủ Nguyễn Thái Học vào thấp hương trước bàn thờ tổ và long trọng thề chỉ lấy nhau sau khi cách mạng đã thành công! Thoáng thấy khẩu súng lục của Nguyễn Thái Học giấu trong áo khoác, cô xin đảng trưởng cấp cho cô một khẩu. Nguyễn Thái Học cười bảo:

- Em làm công tác tuyên truyền và liên lạc, đeo súng làm gì cho vướng víu!

Cô Giang nghiêm nghị đáp:

- Trước bàn thờ Tổ, em xin thề, nếu chẳng may anh có mệnh hệ nào thì em cũng sẽ tự tử chết theo anh!

Nguyễn Thái Học tuy xúc động vì tấm lòng của cô Giang nhưng thấy không vui khi nghe người yêu thốt ra những lời tuyệt vọng ấy.

Từ ngày đó, cô Giang lúc nào cũng coi Lê Hửu Cảnh như người anh đỡ đầu của mình. Cô tin Lê Hửu Cảnh như tin Nguyễn Thái Học. Chuyện gì cô cũng bàn với Cảnh, mặc dầu từ sau hội nghị Đức Hiệp, Cảnh đã bị Tổng Bộ gạt hẳn ra ngoài vì Cảnh chủ trương hoãn cuộc tổng khởi nghĩa. Các đồng chí trung ương cũng có nhiều người hiểu tâm sự Cảnh, nhưng thấy Tổng Bộ đã tỏ thái độ, họ đành phải nghe theo và tránh giao tiếp với Cảnh. Nói chung, “nhóm cải tổ” của Cảnh chỉ còn Nguyễn Xuân Huân là được đắc dụng vì Huân có tài bắn súng mà Ký Con Đặng Trần Nghiệp tin tưởng.

Về phần Lê Hửu Cảnh,lắm khi nằm suy nghĩ sau bao nhiêu biến động thực tế liên tiếp xẩy đến với Quốc Dân Đảng, ông lật qua lật lại vấn đề và thấy quyết định của Nguyễn Thái Học cùng Tổng Bộ phát động cuộc tổng khởi nghĩa là có lý, bởi chẳng còn con đường nào khác. Cứ ngồi mà chờ bị bắt thì còn khổ hơn trăm nghìn lần. Nếu phải trách cứ từ đầu thì người đáng bị phê bình nhất là Nguyễn Văn Viên đã không nhìn xa, đã không tuân lệnh Tổng Bộ tự ý gây nên vụ ám sát René Bazin làm cái cớ cho thực dân Pháp tiêu diệt Quốc Dân Đảng. Quyết định tổng khởi nghĩa của Nguyễn Thái Học thật ra chỉ là chuyện chẳng đừng khi ở vào cái thế không lùi được nữa mà thôi! Cảnh suy đi nghĩ lại thấy mình cũng cạn nghĩ khi phát biểu ở hội nghị, chống lại Nguyễn Thái Học để giờ đây bị nhiều đồng chí xa lánh vì ngờ vực! Có hôm buồn quá, Cảnh mò sang Ninh Bình. Bộ bên ấy gồm khá đông người công giáo. Linh mục Phạm Bá Nha, cùng gia nhập đảng một thời với Cảnh, kiên nhẫn nghe Cảnh phân tích rồi bảo:

- Anh khuyên Nguyễn Thái Học sang Tàu. Anh Học không nghe, thế thì phải khen anh ấy quả cảm chứ sao lại trách. Sang Tàu là con đường dễ đi. Ở lại đánh Tây mới là con đường chông gai! Âu cũng là Chúa quan phòng để anh Học vác Thánh Giá nặng vì dân tộc!

Câu nói của cha Nha càng làm Cảnh ân hận. May mà còn có cô Giang hiểu thấu tấm lòng và luôn luôn tham khảo ý kiến với Cảnh, giúp ông vơi đi phần nào mặc cảm. Dĩ nhiên trước mặt Nguyễn Thái Học, cô Giang thường tế nhị tránh nhắc đến tên Lê Hửu Cảnh, bởi chính Cảnh cũng dăn cô như vậy. Khi người ta đã có thành kiến trong đầu rồi thì rất khó gột rửa! Cô không nhắc, nhưng Nguyễn Thái Học vẫn đóan là Lê Hửu Cảnh đưa tờ truyền đơn này cho cô vì Cảnh là người đạo gốc, tự căn bản đã thù chủ nghĩa Cộng Sản.

Nguyễn Thái Học bảo cô Giang:

- Biết đâu thủ phạm rải truyền đơn chả là thằng đội Dương!

Một đồng chí lớn tuổi đứng bên cạnh cay đắng chen vào:

- Mà có cần gì đội Dương hay Cộng Sản phải rải truyền đơn! Đội Dương đã tâu hết với quan thầy của nó về quyết định tổng khởi nghĩa của mình rồi cơ mà! Đội Duơng dám ngang nhiên rút súng bắn anh Học với anh Nhu thì nó còn sợ gì mà không ra mặt làm chó săn tay sai cho Tây!

Nguyễn Thái Học gật đầu ngậm ngùi bảo cô Giang:

- Việc đã đến nước này thì chỉ còn một đường tiến mà thôi! Em trở lại Yên Bái, lo công việc trên ấy …

Nguyễn Thái Học đang nói dang dở thì ba đồng chí địa phương bấm nhau, cùng bỏ ra ngoài để dành giây phút cho cô Giang gặp riêng người yêu. Nhưng đảng trưởng vẩy tay gọi họ trở lại và tha thiết nói tiếp:

- Làm cách mạng bạo động thì chủ yếu trông vào lực lượng quân sự. Nhưng không may cho chúng ta là bao nhiêu công lao gầy dựng các binh đoàn ở Hà Nội, Đồng Thủy, phi trường Bạch Mai, thậm chí Đáp Cầu, Phả Lại, đều bị đội Dương nội phản tố cáo hết cho giặc. Thành ra bây giờ chỉ còn trông vào Yên Bái. Hy vọng Yên Bái sẽ tạo được chiến công lớn!

Ba đồng chí bên cạnh Nguyễn Thái Học cùng hồi hộp chờ đợi câu trả lời của cô Giang. Cô tỉ mỉ báo cáo:

- Vâng. Cho đến giờ này thì tình hình trên ấy vẫn tốt đẹp. Tinh thần chiến đấu của quân cách mạng rất cao. Em đã hẹn với đồng chí Thanh Giang, ngày mai có mặt ở sân ga. Trong hai ngày, ngày mai và ngày kia sẽ đón khoảng 300 đồng chí từ dưới Phú Thọ lên. Vũ khí thì chi bộ phụ nữ do chị Bắc lãnh đạo, đã chuyển lên đầy đủ rồi! Tất cả sẽ gặp nhau ở rừng sơn, nhận vũ khí trước khi xuất quân đúng ngày giờ Tổng Bộ đã ấn định!

Nguyễn Thái Học thở phào kết luận:

- Như thế là Tổng Bộ có thể an tâm về mặt trận Yên Bái.

Cô Giang gật đầu rồi chào mọi người bước ra. Một đồng chí đưa mắt nhìn Nguyễn Thái Học rồi dè dặt đề nghị với cô:

- Chị ngủ lại đây đêm nay rồi sáng mai hẵng lên đường! Giời sắp tối rồi! Mùa này thì giời tối nhanh lắm!

Nhưng cô cương quyết đáp:

- Tôi phải đi ngay mới kịp!

Cô cô gắng nở nụ cười mặc dù lệ đã nhòa trong hai khóe mắt. Nguyễn Thái Học đứng trong khung cửa trông ra, vừa ái ngại, vừa cảm phục sự dấn thân của người tình. Gặp nhau hôm nay, biết đâu chẳng là lần cuối cùng vì chỉ còn vài ngày nữa là tổng khởi nghĩa! Ba đồng chí đứng sau lưng Nguyễn Thái Học, cũng mang cùng một tâm trạng như đảng trưởng. Một người trông theo cô Giang tất tả bước ra đường, buột miệng than

- Nam nhi như chúng mình, đã mấy ai sánh được với chị ấy!

Cả bọn đều im lặng, cùng đồng ý với nhận xét ấy!

Càng gần đến ngày trọng đại, việc liên lạc càng trở nên khó khăn bội phần, bởi địch đã nắm gần rõ hết mọi toan tính của Quốc Dân Đảng do nội tuyến cung cấp. Đồn binh, trại lính, phi trường, trạm canh, trung tâm huấn luyện, trên toàn cõi Bắc Kỳ đều được tăng cường phòng thủ cẩn mật. Nhân viên chính quyền cũng như binh sĩ phục vụ cho các đơn vị Pháp, bất cứ ai có dấu hiệu khả nghi là Pháp bắt nhốt ngay, biệt giam một chỗ để khỏi tiếp xúc với người thân.

Trong tình hình căng thẳng ấy, thông tin giữa các lực lượng cách mạng gần như tê liệt hẳn. Thậm chí Tổng Bộ đã rời ngày khởi nghĩa, đổi ngày 10 thành 15 tháng 2, theo yêu cầu tha thiết của Hải Phòng và Kiến An, nhưng nhiều nơi không hề biết, vẫn cứ theo chỉ thị cũ. Không hề biết là vì không liên lạc được, hoặc người đưa tin dọc đường bị bắt. Đến ngay cô Giang ở Yên Bái cũng chẳng nhận được lệnh rời ngày. Mà dù cho nhận được lệnh này thì Yên Bái cũng không thể nào rời được nữa, vì 300 đồng chí dân sự từ dưới Phú Thọ đã kéo lên, tập trung trong rừng sơn, và nhất là vì các đồng chí quân nhân trong đồn Yên Bái nhận làm nội ứng cho cách mạng, đã chuẩn bị sẳn, càng để lâu càng dễ bị lộ.

Chẳng phải chỉ riêng Yên Bái không nhận được lệnh hoãn ngày, mà ngay cả Nguyễn Khắc Nhu ở Hưng Hóa, Ký Con ở Hà Nội, cùng nhiều nơi khác trên đất Bắc cũng không biết gì, cứ khai hỏa vào đêm mùng 10 rạng 11 tháng 2 như lệnh cũ đã ban hành. Sơn Tây nổ súng đêm 12, Kiến An tấn công đêm 13, Vĩnh Bảo đêm 15. Chỗ nào cũng gặp trở ngại, ngoại trừ Yên Bái đoạt được chút thắng lợi, lúc đầu nhờ lòng dũng cảm và quyết tâm của các quân nhân trong đồn. Bộ tham mưu gồm có 5 sĩ quan: Quản Cần, Cai Thịnh, Cai Nguyên, Cai Thuyết và Cai Hoằng, trong đó có Cai Hoằng tức đồng chí Ngô Hải Hoằng đáng ghi công đầu trong trận đánh lịch sử này. Ông là ngọn đuốc dẫn đường, là ngọn lửa khích lệ đồng đội, là tấm gương hy sinh cao cả về đởm lược cũng như lòng trung thành với đảng ngay cả sau khi bị giặc bắt. Một mình ông tả xung hữu đột bắn chết 6 quân nhân Pháp, trong đó có đại úy đồn trưởng Jourdain. Ông ngồi tù một tháng, ung dung chờ lên máy chém cùng với đồng đội là Cai Thuyết và hai nông dân từ Phú Thọ tham dự trận đánh. Tất cả đều tỏ ra thanh thản, hãnh diện với công tác đãng giao phó. Bốn người ấy: Đặng Văn Lương, Đặng Văn Tiệp, Nguyễn Thành Thiếp và Ngô Hải Hoằng là bốn chiến sĩ lên máy chém Yên Bái đợt đầu tiên trong vụ án Quốc Dân Đảng năm 1930. Hôm ấy là mùng 8 tháng 3, lúc trời còn mờ hơi sương!

Riêng đảng trưởng Nguyễn Thái Học, trực tiếp chỉ huy mặt trận Đáp Cầu và Phả Lại, muốn đánh một trận quyết liệt rồi chết giữa sa trường cũng cam. Nhưng trời chẳng chiều lòng người. Ngày 12 tháng 2, các đồng chí từ Bắc Ninh và Hải Dương kéo nhau đến điềm tập trung như đã ước hẹn thì không thấy Nguyễn Thái Học đâu! Là vì đảng trưởng đã ra lệnh rời ngày khởi sự mà các đồng chí không nhận được lệnh! Vắng mặt đảng trưởng, mọi người thất vọng, phân tán trở về! Khi anh em kéo đến, Nguyễn Thái Học không biết. Lúc được tin thì lực lượng phân tán gần hết. Từ làng Hưng Thăng, Nguyễn Thái Học bàn với các đồng chí còn lại, có hết bao nhiêu thì dốc hết ra đánh vào đồn binh Đáp Cầu để hỗ trợ những nơi khác đã nổi dậy. Nhưng chưa kịp xuất quân thì giám binh Hải Dương cho lính đến bao vây bất thần. Rất may, Nguyễn Thái Học được dân làng bảo vệ qua sông, chỉ chút xíu nữa là sa vào tay quân thù.

Cuộc khởi nghĩa non yểu làm Việt Nam Quốc Dân Đảng vốn đã trong tình trạng nguy ngập, lại càng thê lương hơn. Ngoài hàng loạt những chiến sĩ bị chết và bị bắt. Tổng Bộ mất thêm một số nhân sự đầu não hết sức quan trọng.

Nguyễn Khắc Nhu chỉ huy tấn công phủ lỵ Lâm Thao, trúng đạn ở chân, không chạy được, bị địch bắt. Ông tự tử ba lần mới chết ở tuổi 47.

Phó Đức Chính được phân công chỉ huy đánh thành Sơn Tây. Nhưng định mệnh cũng lại quá nghiệt ngã đối với ông. Một ngày trước khi khởi nghĩa, kho vũ khí tồn trữ ở làng Quang Hút bị mật báo, giặc đem quân đến tịch thu hết, lực lượng cách mạng đành phải hoãn lại để bàn tính kế hoạch khác. Phó Đức Chính đang lay hoay suy nghĩ thì đồng chí Thanh Giang tức Nguyễn Văn Khôi cùng Cai Tần từ Yên Bái chạy về, định họp lực với Phó Đức Chính để tấn công Sơn Tây. Không còn vũ khí, cả nhóm đang bàn thảo tại nhà đồng chí Quản Trạng ở huyện Tùng Thiện thì bị nội phản: Gã giáo viên tiểu học vì tư thù với chủ nhà, chạy đi báo cho Tây biết. Phó Đức Chính bị bắt ở tuổi 22, Thanh Giang Nguyễn Văn Khôi cũng sa lưới trong dịp này.

Lương Ngọc Tốn, trưởng ban ám sát của đảng, sát cánh với Ký Con. Trên đường sang Bắc Ninh để tìm Nguyễn Thái Học sau đêm khởi nghĩa. Tốn bị cảnh sát Pháp cản lại. Anh rút súng bắn tên đội xếp rồi bỏ chạy bến đò Thanh Trì. Công nhân lò bát thấy Tốn chạy trước, đội xếp đuổi sau lưng, lại tưởng Tốn là quân trộm cắp, nên hùa vào bắt Tốn, đem nạp cho thực dân.

Cùng với hàng trăm đồng chí dũng cảm khác bị sa lưới, nhân sự của Tổng Bộ bước vào một khúc quanh đen tối nhất sau hơn hai năm dựng bảng hiệu Việt Nam Quốc Dân Đảng.

Những ngày kế tiếp, Nguyễn Thái Học thường ẩn núp ở vùng Lương Tài, tức Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, là nơi mà dân chúng hết lòng che chở cho quân cách mạng. Bên cạnh Nguyễn Thái Học giờ này không còn Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính, chỉ có Sư Trạch là bạn đồng hành. Trong những đêm khuya vắng lặng, giấc ngủ chập chờn, Nguyễn Thái Học nghĩ đến những đồng chí tri kỷ nay đã nằm xuống hoặc phân tán khắp nơi, thấy mình hình như mất hẳn hai cánh tay, bơ vơ đến độ có lúc thấy hoản loạn tâm trí! Ông ôn lại bao nhiêu kỷ niệm, từ buổi đầu nô nức ở Nam Đồng Thư Xã với những bằng hửu đầy tâm huyết sát cánh bên nhau. Nhượng Tống với dáng dấp văn nhân, kiến thức uyên bác. Hồ Văn Mịch gầy gò xanh xao vì chứng lao phổi. Rồi còn biết bao nhiêu nhà văn, nhà báo khác, những người bạn ở trường cao đẳng, giờ đang nằm trong Hỏa Lò hoặc đã ra Côn Đảo. Nam Đồng Thư Xã và Khách Sạn Việt Nam đóng cửa rồi, ông lang thang nay đây mai đó trên toàn cõi Bắc Kỳ, bên cạnh lúc nào cũng có Xứ Nhu lớn tuổi, trầm tĩnh. Lê Hửu Cảnh trung niên gan dạ. Phó Đức Chính và Ký Con, tuổi mới ngoài hai mươi nhưng suy tính chuyện gì cũng sâu xa. Cô Nguyễn Thị Giang đảm đang, quyền biến. Tất cả bây giờ như bầy chim vỡ tổ vì bị săn đuổi.

Ông thấy trách nhiệm của mình lớn quá, ông đã đưa bao nhiêu đồng chí vào vòng ngục hình, bao nhiêu người trốn tránh vất vưởng và nhất là bao nhiêu người khác đã ngã gục. Bất giác ông thở dài và ứa nước mắt trong đêm. Những dằn vặt ray rứt như thế làm ông không ngủ được, dù ông vốn là người dễ ngủ!

Các đồng chí lưu vong nghe tin dữ từ quốc nội, vội cử Đoàn Kiểm Điểm về gặp Nguyễn Thái Học để hối thúc ông xuất ngoại. Nhưng dĩ nhiên ông không nghe. Ông buốt nhói nghĩ đến các đồng chí đã hy sinh, lại càng đau đớn xé gan khi thấy thực dân Pháp dội bom làng Cổ Am, giết hại nông dân và tàn phá hết nhà cửa của người vô tội. Đây là lần đầu tiên Pháp dùng máy bay bắn phá xóm làng, nhằm mục đích tiêu diệt tàn quân cách mạng và nhất là để trả thù cho tên tay sai Hoàng Gia Mô, tri huyện Vĩnh Bảo bị lực lượng Quốc Dân Đảng xử tử hôm 15 tháng 2. Hoàng Gia Mô là cháu nội Hoàng Trọng Phu, tổng đốc Hà Đông, khét tiếng là gia nô đắc lực của Pháp. Quân cách mạng do Trần Quang Diệu chỉ huy, đã bắt trói, tuyên án và xử Hoàng Gia Mô bằng một phát súng trường.

Thống sứ Bắc kỳ René Robin, sau khi xin ý kiến toàn quyền Pasquier đã ra lệnh cho phóng pháo cơ ném 57 trái bom xuống nhằm bình địa làng Cổ Am để trừng phạt và hăm dọa. Trong thông tư gửi các công sứ đứng đầu tỉnh toàn cõi Bắc Kỳ, Robin cảnh cáo:

“Nếu làng nào còn chứa chấp bọn khởi nghĩa, thì cũng sẽ bị ném bom ngay như làng Cổ Am chứ không thể tha thứ được”.

Nhóm Lê Hửu Cảnh, Nguyễn Xuân Huân cùng các đồng chí trước đây bị coi là trung lập, không được tham gia công tác khởi nghĩa, nay dò được tin Nguyễn Thái Học đang có mặt tại huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh, vội vàng lẩn lút đi thâu đêm tìm gặp đảng trưởng. Riêng Nguyễn Đôn Lâm vì vết thương ở vai chưa lành, nên đành tìm nơi kín đáo, ẩn mình buộc thuốc.

Riêng Cảnh, mấy hôm liền không ăn không ngủ được. Ông ghé căn gác trọ của Minh, nằm chờ một đêm lắng nghe tin tức. Rồi khi biết chắc mọi trận đánh đều bất lợi cho đảng. Cảnh tức tốc tìm đường sang Bắc Ninh vì đóan chắc Nguyễn Thái Học đang ở đó. Cảnh cũng hy vọng gặp cả cô Giang. Nhưng thật ra thì cô Giang đã chạy về Bắc Giang từ sau đêm tấn công Yên Bái.

Nhìn thấy Cảnh, Nguyễn Thái Học nhớ ngay đến cô Giang vẫn thường thẳng thắn bênh vực lập trường của Cảnh. Giờ này thì ông đã biết Cảnh là người trung thành với đảng. Cũng may Ký Con vì mến tài Cảnh, không nỡ hạ thủ, chứ không thì đảng đã mất đi một nhân tài.

Hôm ấy, tất cả gặp nhau trên con đò đậu ở bến Kênh Vàng. Vừa lên thuyền, nhìn nét mặt hốc hác của Nguyễn Thái Học, Cảnh quên hết mọi bất hòa trong mấy tháng qua, tha thiết nói:

- Anh phải ra nước ngòai ngay, không chần chờ được nữa!

Nguyễn Thái Học lắc đầu cười buồn. Cảnh nhấn mạnh:

- Dạo trước, tôi khuyên anh đi, anh không đi vì muốn một lần thử lửa với giặc. Bây giờ tình hình đã đến lúc tuyệt vọng, anh phải đi, không còn lý do nào để ở lại!

Nguyễn Thái Học mệt mỏi đáp:

- Bao nhiêu đồng chí đã ngã xuống. Bao nhiêu dân lành đã vì đảng mà chết oan, tôi phải ở lại để chết chung với anh em! Anh Nhu đã chết, anh Chính đã bị bắt. Tôi nỡ nào tìm nơi an toàn mà sống!

Cảnh chì chiết:

- Bao nhiêu đồng chí đã chết? Bao nhiêu dân lành khác thác oan! Chính vì vậy mà anh phải xuất ngoại. Xuất ngoại để sống. Anh có sống thì mới báo thù cho các đồng chí!

Nguyễn Thái Học hai ba lần nhắc lại:

- Không thể được! Không thể được!

Lê Hửu Cảnh cố nén cơn giận, ôn tồn giải thích:

- Anh Học, anh phải nghĩ đến đường dài. Kế hoạch đường dài của mình bây giờ là anh phải qua bên kia biên giới, thành lập tổng bộ bên ấy. Ta đã có sẳn lực lượng của anh Nghiệp và chính phủ Quốc Dân Đảng Trung Hoa yểm trợ. Chúng tôi ở lại trong nước, họp nhau cải tổ lại đảng, tạm thời rút vào bí mật tối đa để chờ thời cơ. Giữa tổng bộ bên ấy và quốc nội, sẽ có đường giây liên lạc chặt chẽ để quốc nội nhận chỉ thị từ tổng bộ. Anh phải nhớ rằng, anh còn thì đảng còn. Anh mất thì đảng tan rã. Nhất là các đồng chí đang bị giam cầm, ngày đêm trông ngóng ra ngoài. Nếu chẳng may anh bị bắt, họ sẽ như rắn mất đầu. Chừng ấy, họ sẽ phải ngả theo Đông Dương Cộng Sản Đảng hết. Vì chẳng còn một chỗ dựa nào để đánh Tây!

Nguyễn Thái Học cảm động nhìn Cảnh, lòng dân lên nỗi ân hận vì trước đây đã ngờ vực Cảnh thay lòng đổi dạ. Suýt nữa thì tổng bộ giết oan một đảng viên trung thành. Ông đưa mắt nhìn khắp lượt. Nhiều đồng chí gật đầu tán đồng ý kiến của Cảnh. Nguyễn Xuân Huân cũng nhắc lại:

- Chủ trương của đồng chí Cảnh là chủ trương có suy nghĩ sâu sắc. Anh nên nghe lời đồng chí ấy! Anh ở lại, nếu chẳng may anh bị bắt thì muôn đời không trả được mối thù cho các đồng chí đã nằm xuống!

Nguyễn Thái Học xúc động bảo:

- Tôi cảm ơn các đồng chí, cảm ơn anh Cảnh. Nhưng ý tôi đã quyết! Chủ trương của tôi ngay từ buổi đầu là ở lại, chấp nhận gian khổ với đồng chí và đồng bào. Nếu có chết, cũng chết bên cạnh đồng chí của mình!

Cảnh không biết nói gì hơn, ngậm ngùi như muốn khóc. Ông quay nhìn ta giòng sông. Các đồng chí khác cũng đành im lặng. Một lúc sau, Cảnh hạ giọng bảo Nguyễn Thái Học:

- Từ hôm ấy đến nay, chả có tin gì của cô Giang!

Có người lên tiếng:

- Nghe nói chị ấy đang ở bên Bắc Giang! Chưa bị bắt là may rồi!

Sư Trạch thay mặt Nguyễn Thái Học kết luận:

- Bây giờ chúng ta chia tay. Không nên tập trung lâu một chỗ. Sáng mai gặp nhau ở nhà đồng chí Tuyên, làng Trụ Thôn.

Thế là hôm sau và ba ngày kế tiếp, Nguyễn Thái Học chủ tọa hội nghị khẩn cấp bàn về việc cải tổ đảng tại nhà Nguyễn Văn Tuyên, có Lê Hửu Cảnh, Nguyễn Xuân Huân, Sư Trạch, Phạm Văn Phổ và vài đồng chí khác từ các nơi khác đến. Đoàn Kiểm Điểm thì đã bỏ về Trung Hoa để báo cáo tình hình cho các đồng chí bên ấy. Thời gian này, Nguyễn Thế Nghiệp đã gây dựng xong lực lượng Quốc Dân Đảng hải ngoại, đặt tên là Vân Nam đệ nhất đạo bộ, nghĩa là vẫn thống thuộc tổng bộ trong nước. Để dễ hoạt động, Nguyễn Thế Nghiệp thay tên đổi họ, lấy bí danh là Trương Nguyên Minh nghe có vẻ Tàu hơn. Ông được bầu làm chi bộ trưởng, phát triển đảng viên rất nhanh trong cộng đồng người Việt ly hương luôn nhớ về đất nước. Ông dùng Vân Nam Đạo Bộ làm nền tảng để đón Nguyễn Thái Học sang, xây dựng lại tổng bộ sau cuộc khởi nghĩa thất bại. Nhưng rất tiếc là đảng trưởng dứt khoát không đi. Đoàn Kiểm Điểm phải trở về tay không!

Ngày 19 tháng 2, nghĩa là chưa đầy mười hôm sau tổng khởi nghĩa, hội nghị bế mạc. Các đồng chí bịn rịn chia tay, ai cũng linh cảm thấy hiểm nguy đang rình rập tứ phía. Cảnh rưng rưng bảo Nguyễn Thái Học:

- Chả nói anh cũng biết. Sở liêm phóng đã cho in ra hàng vạn tấm hình của anh, kèm với hàng triệu truyền đơn, rải khắp nơi. Chỗ nào cũng thấy hình anh. Bến đò, nhà ga, đình làng, sân chùa, cổng chợ, nhà giây thép, cổng làng, trường học, điếm canh, không bỏ sót chỗ nào. Anh dứt khoát không chịu sang Tàu, tôi không bàn đến nữa! Nhưng anh phải hết sức cẩn thận, thay hình đổi dạng, băng rừng vượt suối mà đi. Chúng nó treo giải thưởng 5 nghìn đồng cho ai bắt được hoặc giết được anh! Năm nghìn đồng to lắm! Thế nào chả có đứa nổi lòng tham! Thời buổi này chả biết tin ai, tôi chỉ xin nhắc bao nhiêu cho anh thôi!

Nguyễn Thái Học xiết chặc bàn tay Cảnh và run run nói:

- Cảm ơn đồng chí, đồng chí cũng cần bảo trọng!

Cảnh hỏi:

- Anh định đi đâu bây giờ?

Su Trạch đáp thay:

- Tôi đưa anh Học về chùa Đáp Khê bên Hải Dương. Chùa nhà!

Cảnh là một người Công giáo từ thuở nhỏ từng học trong chủng viện với ý định đi tu làm linh mục, cho nên dù sao đối với một nhà sư Phật giáo, ông cũng cảm thấy có một khoảng cách nào đó khiến ông không dám thân thiện bởi Cảnh không hiểu rõ hệ thống tu hành bên Phật giáo. Đã thế, nhiều người quen thiêu dệt lại gọi Sư Trạch là thầy cúng hoặc thầy pháp có nhiều bùa phép không tưởng, nên Cảnh lại càng dè dặt. Thực chất thì ông chỉ là một nhà sư theo phái Mật Tông thờ Phật Tổ và thờ thiền sư Từ Đạo Hạnh. Ông trụ trì ở chùa Đáp Khê bên Hải Dương. Quốc Dân Đảng từ bản chất đã muốn kết họp mọi thành phần dân tộc vào cuộc cách mạng chống Pháp, nên không phân biệt tôn giáo. Thậm chí đồng chí Nguyễn Ngọc Sơn đã từng vào Nam đã tính chuyện liên kết với đạo Cao Đài lúc đó đang phát triển ồ ạt, nhưng không thành. Ở miền Bắc thì khá nhiều chùa trở thành cứ điểm của Quốc Dân Đảng, trong đó có chùa Đáp Khê mà Sư Trạch tu trì. Ông có ý chí cương nghị, võ nghệ cao cường nên đã rời chùa để đảm trách việc bảo vệ cho đảng trưởng Nguyễn Thái Học.

Cảnh cúi đầu chào Sư Trạch và nói:

- Có đồng chí đi bên cạnh anh Học, chúng tôi thấy yên lòng! À … Quên cái này nữa. Thằng thống sứ Robin vừa bổ nhiệm Vi Văn Định, tổng đốc Thái Bình, lo việc lùng bắt lực lượng của chúng ta. Nó gọi là “tiểu trừ tàn quân Quốc Dân Đảng”! Vi Văn Định thì các đồng chí biết rồi! Nó còn ác hơn cả quan thầy của nó nữa! … Thôi. Xin các anh bảo trọng!

Rồi Cảnh làm dấu Thánh Giá và kéo tay Nguyễn Xuân Huân đi nhanh ra cổng, trở về Hà Nội. Huân vốn là tri kỷ của Cảnh từ thuở trước hội nghị Đức Hiệp. Tuy không tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa, nhưng Huân là tay thiện xạ, sử dụng nhuần nhuyễn súng lục, nên được tổng bộ thường giao cho công tác thanh tóan nhưng kẻ phản bội, chẳng hạn như giáo Phú, giáo Du trước đây.

Cảnh và Huân đi rồi, Nguyễn Thái Học cùng Sư Trạch và ba đồng chí nữa cũng vội vàng thu xếp lên đường. Cả nhóm mặc quần áo phu mỏ, vai mang đãy vải, giấu súng lục trong cạp quần. Đồng chí Phạm Văn Phổ ngăn lại và đề nghị:

- Không nên đi đường bộ, nguy hiểm lắm! Suốt từ bến đò Kênh Vàng đến hết địa phận Mỹ Lộc, dọc bờ sông đều có người của ta, tội gì không đi thuyền có anh em bảo vệ!

Nguyễn Thái Học bảo:

- Đi thuyền rềnh ràng mất thì giờ lắm! Ta tìm đường len lỏi xuyên rừng mà đi. Mặc quần áo này thì ai mà để ý!

Thấy đảng trưởng đã quyết, Phổ đành níu tay từ giã, dặn dò vài câu rồi đứng nhìn theo năm đồng chí lủi thủi ra cổng.

Qua một đêm lặn lội mệt mỏi, ngủ vài tiếng đồng hồ ở dọc đường, sáng 20 tháng 2, đoàn người lại lên đường lúc trời còn mờ hơi sương. Quả đúng như Cảnh nói, chỗ nào Nguyễn Thái Học cũng thấy hình mình dán trên gốc cây, vách tường, kèm theo món tiền thưởng hấp dẫn.

Khoảng hơn 8 giờ sáng, đoàn người đến địa phận Chi Ngãi, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Nhưng họ không vào làng, vì Chí Ngãi có đồn lính Khố Xanh. Họ đi vòng xuyên qua ấp Cổ Vịt, vùng đất mà tên thực dân Clébert đang khai thác nông trại, có lính khố xanh và tuần phiên canh gát thường trực. Mặt trời vừa lên, không gian đầu xuân còn se lạnh, 5 gã tuần phu vừa thức giấc đang ngồi ăn sáng trong điếm canh. Thấy người lạ mặt xuất hiện trong ấp, đám tuần phu đứng bật dậy, tri hô bắt đứng lại. Mặc dù thân rã rời vì thiếu ăn thiếu ngủ mấy tháng nay, Nguyễn Thái Học vẫn cứng rắn bảo Sư Trạch:

- Không thể đứng lại cho chúng nó khám được! Sẽ lộ tông tích ngay! Cứ cấm đầu đi rồi có gì thì bỏ chạy! Chắc chúng nó chỉ dọa thôi!

Sư Trạch và 3 đồng chí đồng ý, rảo bước theo Nguyễn Thái Học. Một trong ba đồng chí là Ký Diến quay mặt về phía điếm canh, nói lớn:

- Chúng tôi là phu mỏ, đi làm sớm. Xin các bác làm phúc cho nhờ đường qua ấp vì sợ không kịp giờ. Đội ơn các bác lắm!

Đã xuống nước như vậy mà đám tuần phu vẫn không bỏ cuộc. Chúng lao ra, đuổi theo

- Đứng lại cái đã! Ai cho phép chúng mày qua ấp! Đứng lại để chúng ông khám cái đã

Nguyễn Thái Học nhìn khu vườn trước mặt nói:

- Mình chạy bừa vào trong kia! Đừng để chúng nó khám xét lôi thôi!

Rồi ông bảo Sư Trạch:

- Quăng lại một quả lựu đạn cho chúng nó sợ, không dám đuổi theo! Ném xa xa, đừng để cho chúng nó bị thương! Mình dọa thôi!

Sư Trạch làm theo lời đảng trưởng. Nhưng không ngờ bọn tuần phu có súng! Chúng bắn theo vài phát và hét lên:

- Đứng lại! Đứng lại! Không ông bắn chết!

- Tất cả đứng lại, bắn bỏ mẹ bây giờ!

Nguyễn Thái Học vừa chạy vừa rút súng lục. Sư Trạch giục:

- Các anh chạy trước, để tôi chặn chúng nó!

Sư Trạch vừa dứt câu thì mấy phát súng nổ vang, đạn bay vèo tới. Cả Nguyễn Thái Học và Sư Trạch đều bị thương, đạn ghim vào bắp chân, ngã quị xuống. Bọn tuần phu xông lại, năm đứa vây quanh. Hai mũi súng dí xuống. Phần vì bị thương, phần quá mệt mỏi, Nguyễn Thái Học không còn nghĩ đến chuyện chống cự nữa. Ông chỉ nói nhanh với ba đồng chí cùng đi với ông là Diên, Kính và Tuyên:

- Ba anh chưa bị thương, liệu tìm cách thoát thân đi!

Rồi ông buông xuôi, quăng súng!

Anh hùng mạt lộ! Lũ tuần phu xông vào bắt trói. Khi biết đó là Nguyễn Thái Học, một trong năm gã tuần phu hốt hoảng kêu lên:

- Thôi chết rồi! Tôi bắt nhầm người rồi! Làm thế nào bây giờ!

Tất cả đều đã muộn. Vì gã thực dân Clébert, chủ ấp, ngay từ khi nghe tiếng tri hô, tiếng súng nổ, đã nai nịt chạy ra và đang tiến đến bên cạnh Nguyễn Thái Học. Gã trố mắt kinh ngạc một cách hớn hở, ra lệnh trói Nguyễn Thái Học và Sư Trạch thật kỹ rồi bỏ vào thúng, sai tuần phu khiêng lên đồn Chi Ngãi. Đích thân Clébert cầm súng áp giải phía sau!

Clébert không thể ngờ được rằng cái người từng làm rúng động chính quyền bảo hộ trên toàn cõi Bắc Kỳ hơn 2 năm nay, giờ này lại nằm trong tay hắn! Đúng là hoạnh tài bất ngờ, tin vui bất chợt, làm hắn chỉ chú tâm đến Nguyễn Thái Học vừa bị hắn trói thật chặt, đặt trong thúng mây, khiêng nộp đồn lính. Nhờ vậy, ba đồng chí cùng đi với Nguyễn Thái Học là Ký Diến, Chánh Kính và Chánh Tuyên lợi dụng lúc bọn tuần phu sơ hở, đã nhớ lời dặn của Nguyễn Thái Học, bỏ chạy lao vào rừng Kiếp Bạc. Clébert bắn theo mấy phát nhưng không trúng. Hắn cũng chẳng bận tâm sai thủ hạ đuổi theo, vì cái người tù nhân vĩ đại là Nguyễn Thái Học đang nằm trong tay hắn mới thật là quan trọng, không thể để lọt lưới một lần nữa.

Ba đồng chí ngủ tạm trong rừng rồi hôm sau bơi qua sông Luống để trở về Gia Bình. Ra đến giữa sông thì Chánh Tuyên quay lại bảo hai bạn:

- Anh Học bị bắt! Đại sự đã hỏng rồi! Tôi cũng chẳng thiết sống làm gì nữa! Thôi, vĩnh biệt hai anh!

Rồi ông buông xuôi, tự trầm dưới đáy sông!

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Nhấn vào giữa màn hình để hiển thị Tùy chọn đọc.
Theo dõi Đọc Sách Hay trên Facebook, mỗi ngày chúng tôi cập nhật những cuốn sách, truyện hay nhất!
Dòng Mực Cũ Chương 12

Có thể bạn thích