Cũng như tôi, Emily ưa những bài hát Mỹ Broadway ngày xưa. Cô thì chuộng những bài rộn ràng, kiểu “Cheek to cheek” của Irving Berlin hay “Begin the beguine” của Cole Porter, trong khi tôi thiên về những bản ballad dịu dàng thấm thía, như “Here’s that rainy day” hay “It never entered my mind”. Nhưng phần trùng nhau cũng khá đáng kể, mà dù gì thì, hồi đó, trong một trường đại học ở miền Nam nước Anh, tìm được một người cùng chia sẻ sở thích này cũng gần như một phép màu. Bây giờ giới trẻ có thể nghe mọi loại nhạc. Cháu tôi chuẩn bị vào đại học mùa thu này, nó đang trong thời kỳ tango Argentina. Nó cũng nghe cả Edith Piaf với vô số ban indie mới ra ràng nữa. Nhưng thời tôi món ăn tinh thần không đa dạng đến vậy. Sinh viên như tôi chủ yếu thuộc một trong hai loại: nhóm hippie tóc dài áo quần phấp phới nghe “rock cấp tiến”, và nhóm đồ tuýt chải chuốt coi bất cứ thứ gì không phải nhạc cổ điển đều là tiếng bò rống. Thỉnh thoảng cũng gặp được một người tự nhận mình nghe jazz, nhưng rốt cuộc đều thành ra loại nửa nọ nửa kia - những biến tấu bất tận không tôn trọng tí nào các nguyên bản trau chuốt của chúng.

 

Vì thế tôi hởi lòng khi gặp được một người nữa, mà lại là con gái, biết quý Great American Songbook. Cũng như tôi, Emily gom nhặt những đĩa than các bài cơ bản thể hiện bằng giọng hát tinh tế, không màu mè - thường bán rẻ mạt ở những cửa hàng lạc xoong, sau khi bị cha mẹ chúng tôi quẳng ra xó cửa. Cô hâm mộ Sarah Vaughan và Chet Baker. Tôi thì thích Julie London và Peggy Lee. Cả hai đều không hào hứng mấy với Sinatra hay Ella Fitzgerald.

 

Năm ấy là năm nhất, Emily sống trong ký túc, phòng cô có một máy quay đĩa loại nhỏ, hồi ấy khá thông dụng. Trông nó giống một hộp đựng mũ lớn, các mặt giả da lam nhạt và một loa gắn sẵn. Chỉ khi nhấc nắp lên mới nhìn thấy được mặt quay đặt ở trong. Âm thanh của nó so với tiêu chuẩn ngày nay thì khá sơ đẳng, nhưng tôi vẫn nhớ chúng tôi đã châu đầu quanh cái máy ấy hân hoan suốt nhiều giờ, nhấc mũi kim khỏi một rãnh, thận trọng hạ xuống một rãnh khác. Chúng tôi thích nghe liên tục một bài do nhiều người hát, rồi tranh cãi về lời bài hát, hay về cách thể hiện của ca sĩ. Có thật câu này nên hát với một giọng mỉa mai thế không? “Georgia on my mind” sẽ hay hơn nếu coi Georgia là người đàn bà hay là địa danh ở Mỹ? Chúng tôi hết sức hài lòng mỗi lần tìm được một đĩa - như Ray Charles hát “Come rain or come shine” chẳng hạn - khi lời bài hát có vẻ rất vui, nhưng cách ca sĩ hát thì tuyệt đối bi lụy.

 

Emily say mê những đĩa hát ấy là chuyện hiển nhiên đến nỗi tôi vẫn sửng sốt mỗi khi bắt gặp cô nói chuyện với những sinh viên khác về một ban nhạc rock điệu đàng hay một tay ca sĩ viết nhạc California óc rỗng. Thỉnh thoảng, cô còn tranh luận về một an bum “ý niệm” theo cùng một giọng như khi nói chuyện với tôi về Gershwin hay Howard Arlen, và tôi cắn môi để giấu mình đang bực bội.

 

Hồi ấy Emily thanh mảnh, rất xinh đẹp, và nếu không phải cô đã chọn Charlie không lâu sau khi vừa bắt đầu sự nghiệp trường lớp, tôi chắc cô phải có một bầy con trai bám đuổi theo. Nhưng cô không phải loại người đỏng đảnh hay lả lơi, nên khi cô đã đi với Charlie rồi thì những hâm mộ viên khác đều bỏ cuộc.

 

“Đấy là lý do duy nhất tớ còn giữ Charlie ở bên mình,” có lần cô bảo tôi, nét mặt hết sức nghiêm chỉnh, rồi phá lên cười khi thấy tôi điếng người. “Nói đùa thôi, đồ ngốc. Charlie là tình yêu, tình yêu, tình yêu của tớ.”

 

Charlie là bạn thân nhất của tôi ở trường. Năm nhất ấy, chúng tôi cặp kè với nhau mọi nơi mọi lúc và tôi quen Emily là vì thế. Tới năm hai, Charlie và Emily cùng bạn thuê chung một ngôi nhà trong thành phố và dù tôi đến thăm họ thường xuyên song những cuộc chuyện trò với Emily bên chiếc may quay đã trở thành quá khứ. Mới đầu là mỗi lần tôi ghé qua đã có vài sinh viên khác ngồi đó, tán chuyện và đùa cợt, thứ nữa là bây giờ có một bộ dàn stereo thứ xịn gầm rú nhạc rock khiến người ta phải hét lên mới nghe thấy nhau.

 

Charlie và tôi vẫn chơi thân trong những năm sau đó. Chúng tôi không gặp nhau nhiều như trước, nhưng chủ yếu là do ở xa. Tôi đã ở đây, ở Tây Ban Nha vài năm, lại cả Ý và Bồ Đào Nha nữa, trong khi Charlie từ trước đến giờ vẫn ở Luân Đôn. Nhưng nếu nghe thế mà nghĩ tôi thuộc loại bay nhảy còn cậu ấy bó gối trong nhà thì sẽ buồn cười lắm. Bởi thực ra Charlie mới là người bay đi khắp nơi - Texas, Tokyo, New York - tới những cuộc họp cấp cao, trong khi tôi quanh quẩn trong tòa nhà ẩm mốc năm này qua năm khác, chấm những bài tập đánh vần hay nhắc đi nhắc lại một bài hội thoại bằng thứ tiếng Anh tua chậm. Tên-tôi-là-Ray. Tên-anh-là-gì? Anh-có-con-không?

 

Khi tôi quyết định dạy tiếng Anh sau khi tốt nghiệp, cuộc đời có vẻ khá suôn sẻ - gần như cuộc sống sinh viên kéo dài. Các trường dạy tiếng đang bùng nổ khắp châu Âu, và tuy việc dạy học có nhạt nhẽo và những giờ dài có nhọc nhằn, ở tuổi ấy người ta không lo nghĩ lắm. Anh bỏ thời gian trong bar là chính, bạn bè dễ kiếm, lại còn cảm giác anh thuộc về cái mạng lưới rộng lớn trải khắp hoàn cầu. Anh gặp những người vừa chân ướt chân ráo từ Peru hay Thái về, khiến anh nghĩ chỉ cần muốn là anh có thể phiêu du quanh thế giới vô hạn định, nhờ những quan hệ này mà kiếm một việc làm ở bất cứ góc địa cầu nào anh thích. Và anh sẽ luôn luôn là một thành viên của cái gia đình đông đúc, ấm cúng toàn những giáo viên lưu động này, gật gù bên ly kể cho nhau chuyện những cựu đồng nghiệp, những hiệu trưởng khùng, những chuyên viên Hội đồng Anh lập dị.

 

Dạo cuối thập kỷ 80, có lời đồn về cơ hội kiếm tiền rất dễ ở Nhật, và tôi đã nghiêm túc tính chuyện sẽ đi, nhưng rốt cuộc không làm được. Tôi cũng đã nghĩ đến Brazil, thậm chí còn đọc mấy quyển sách về nền văn hóa ở đó và gửi thư xin mẫu đăng ký. Nhưng không hiểu sao cuối cùng cũng không thành. Miền Nam nước Ý, Bồ Đào Nha một thời gian, rồi về lại Tây Ban Nha. Rồi ngoảnh đi ngoảnh lại, anh đã bốn mươi bảy, và lớp người đồng lứa với anh thưở đầu đã từ lâu bị thay bằng một thế hệ mới chuyện gẫu về những đề tài khác, chơi những thứ độc dược khác và nghe những loại nhạc khác.

 

Trong thời gian đó, Charlie và Emily đã lấy nhau và ổn định ở Luân Đôn. Charlie từng bảo tôi, khi hai người có con tôi sẽ làm bố đỡ đầu cho một đứa. Nhưng chuyện đó cũng không xảy ra. Ý tôi là, đứa bé không ra đời, và đến giờ tôi nghĩ là đã muộn. Tôi phải thừa nhận, tôi luôn thấy hơi thất vọng về chuyện đó. Có lẽ tôi vẫn tưởng tượng rằng đỡ đầu cho một đứa con của họ sẽ tạo ra mối liên hệ chính thức, dù mong manh đến đâu, giữa cuộc sống của họ ở Anh và tôi ở đây.

 

Dù sao thì, đầu hè này tôi đã đến Luân Đôn ở với họ. Chuyến đi đã được sắp xếp ổn thỏa từ trước, và khi tôi gọi điện kiểm tra lại vài ngày trước khi đi, Charlie có bảo họ “cực kỳ hết sức ổn”. Vì thế tôi không còn lý do nào để trông đợi chuyện gì hơn là xả láng và thả lỏng sau một vài tháng không thể gọi là tươi đẹp nhất trong đời.

 

Sự thực là khi bước lên khỏi ga tàu điện ngầm gần nhà họ vào cái ngày nắng đẹp ấy, đầu tôi chỉ nghĩ xem liệu đã có những sửa sang gì cho phòng ngủ “của tôi” kể từ chuyến thăm trước. Trong suốt những năm qua, hầu như bao giờ cũng có một cái gì đó. Lúc thì là một món đồ điện tử sáng loáng trong góc phòng, lúc khác cả căn phòng được trang trí lại. Lần nào cũng vậy, gần như đã thành quy tắc, căn phòng sẽ được chuẩn bị cho tôi đúng y như một khách sạn hạng sang: khăn tắm để sẵn, hộp bánh quy đầu giường, một chồng CD trên bàn gương. Vài năm trước, Charlie dẫn tôi vào phòng và với vẻ tự hào hờ hững bắt đầu bật tanh tách các loại công tắc, khiến đủ thứ đèn giấu kín đáo bật rồi lại tắt: đằng sau tấm đầu giường, trên nóc tủ áo vân vân. Một công tắc khác đánh thức một tiếng rì rì, thế là mành mành từ từ hạ xuống trước hai cửa sổ.

 

“Nghe này, Charlie, tôi cần mành làm gì mới được chứ?” lúc đó tôi hỏi. “Tôi muốn nhìn ra ngoài khi tỉnh dậy. Chỉ cần rèm là được rồi.”

 

“Mành Thụy Sĩ đấy,” cậu ta đáp, cứ như thế là giải thích xong.

 

Nhưng lần này Charlie dẫn tôi lên cầu thang vừa đi vừa lúng búng, và khi đến phòng tôi, tôi nhận ra là cậu ta đang xin lỗi. Rồi tôi nhìn thấy căn phòng ở một tình trạng chưa bao giờ gặp. Giường để trần, tấm nệm lốm đốm và lệch xẹo. Trên sàn để từng chồng tạp chí và sách cũ, hàng búi quần áo cũ, một cây gậy hockey và thùng loa đổ nghiêng. Tôi dừng lại trên bậc cửa trố mắt nhìn trong lúc Charlie dọn chỗ cho tôi để túi.

 

“Trông cậu cứ như sắp đòi gặp người quản lý nhà,” cậu ta chua chát nói.

 

“Không, không. Chỉ là trông nó không giống như mọi khi.”

 

“Cái chuồng lợn, mình biết, chuồng lợn.” Cậu ta ngồi xuống đệm thở dài. “Tôi cứ nghĩ mấy con nhỏ lau dọn đã phải xong phòng này rồi. Giờ thì rõ ràng là chưa. Chúa biết tại sao.”

 

Trông cậu ta rất phiền muộn, nhưng thình lình cậu ta lại bật dậy.

 

“Thế này, chúng ta ra ngoài ăn trưa. Tôi sẽ để giấy lại cho Emily. Chúng ta có thể ăn một bữa trưa bình thản từ tốn và đến lúc ta về thì phòng cậu - thì cả căn hộ - sẽ xong.”

 

“Nhưng chúng ta không thể bắt Emily dọn dẹp hết được.”

 

“Ồ, cô ấy chẳng làm đâu. Cô ấy sẽ tóm được bọn lau dọn. Cô ấy biết làm cách nào truy ra chúng nó. Tôi thì đến số của chúng nó cũng không có. Ăn trưa thôi, đi ăn trưa thôi. Từ điểm tâm đến tráng miệng, chai vang nữa, đầy đủ.”

 

Cái mà Charlie gọi là căn hộ của họ thực tế là hai tầng trên của một căn nhà liên kế bốn tầng trên một con phố giàu có nhưng ồn ã. Chúng tôi ra khỏi cửa chính là đâm ngay vào một luồng người xe cuồn cuộn. Tôi đi theo Charlie qua hết cửa hàng này đến cơ quan khác đến một nhà hàng Ý xinh xắn. Chúng tôi chưa đặt chỗ trước, nhưng bồi bàn chào Charlie như bạn bè và đưa chúng tôi đến bàn. Nhìn quanh một vòng tôi thấy ở đây toàn dạng doanh nhân com lê ca vát, và lấy làm mừng vì Charlie trông cũng nhàu nhĩ như tôi. Chắc cậu ta cũng đoán được tôi đang nghĩ gì, vì ngồi vừa ấm chỗ cậu ta đã nói:

 

“Ôi, trông cậu nhà quê quá, Ray ạ. Dù sao thì mọi thứ cũng thay đổi rồi. Cậu đi xa tổ quốc lâu quá.” Rồi cao giọng một cách nguy hiểm: “Chúng mình trông như những kẻ làm nên. Mọi kẻ khác quanh đây giống như bọn tay sai của sếp lớn.” Rồi cậu ta nghiêng người về phía tôi nói nhỏ lại: “Thế này, chúng ta cần nói chuyện. Tôi cần xin cậu một cái ơn.”

 

Tôi không nhớ lần cuối Charlie nhờ tôi giúp là khi nào nếu có, nhưng tôi cũng gật đầu bình thản và đợi. Cậu ta xoay tờ thực đơn mấy giây, rồi đặt xuống.

 

“Thực tình là, Emily và tôi đang ở trong thời kỳ hơi lục đục. Sự thực là, dạo gần đây, chúng tôi hoàn toàn tránh mặt nhau. Vì thế lúc nãy cô ấy mới không ở nhà đón cậu. Hiện giờ, tôi e là cậu sẽ phải chọn một trong hai người chúng tôi. Cũng gần như những vở kịch có một diễn viên đóng hai vai ấy. Cậu không thể có cả tôi lẫn Emily trong phòng cùng một lúc. Khá trẻ con, phải không?”

 

“Rõ ràng tôi đến lúc này là không hợp. Tôi sẽ đi ngay, ăn trưa xong là đi. Tôi sẽ ở với dì Katie ở Finchley.”

 

“Cậu nói chuyện gì vậy? Cậu không nghe à? Tôi vừa nói xong. Tôi xin cậu một cái ơn.”

 

“Tôi nghĩ đấy chỉ là cách nói…”

 

“Không, đồ ngốc, tôi mới là đứa cần biến đi. Tôi phải dự một cái họp ở Frankfurt, tôi sẽ bay chiều nay. Hai hôm nữa về, muộn nhất là thứ Năm. Trong lúc đó thì cậu ở đây. Cậu dàn xếp mọi thứ, khiến cho mọi việc ổn thỏa. Rồi tôi quay lại, cười chào hớn hở, hôn cô vợ thân yêu, và chúng tôi nối lại từ quãng đứt.”

 

Đến câu này thì cô phục vụ đến nghe chúng tôi gọi món, và khi cô ta đi Charlie có vẻ ngần ngại không muốn quay lại đề tài này. Thay vào đó, cậu ta dội xuống tôi câu hỏi về cuộc sống ở Tây Ban Nha, và mỗi lần tôi kể lại điều gì, dù tốt hay tồi, cậu ta lại nhếch cái nụ cười chua chát và lắc đầu, như thể tôi vừa khẳng định những gì cậu ta vẫn sợ. Có một lúc tôi định kể mình đã tiến bộ trong vai trò đầu bếp ra sao - tôi đã gần như đơn thương độc mã nấu bữa buýp phê Giáng sinh cho hơn bốn chục học sinh và giáo viên - nhưng cậu ta ngắt lời tôi.

 

“Nghe tôi nói này,” cậu ta bảo. “Tình trạng của cậu là tuyệt vọng rồi. Cậu cần nộp giấy thôi việc đi thôi. Nhưng trước hết cậu cần tìm được một việc mới đã. Cái gã trầm cảm Bồ Đào Nha này, coi hắn như kẻ môi giới. Chắc chân ở chỗ làm Madrid, rồi vứt bỏ căn hộ đi. Được rồi, cậu làm những việc này. Một là…”

 

Cậu ta giơ bàn tay và bắt đầu gập từng ngón trong lúc xướng những bước tôi cần làm. Đồ ăn đến trong lúc vẫn còn vài ngón tay nữa, nhưng cậu ta phớt lờ và tiếp tục cho đến hết. Rồi đến lúc bắt đầu ăn cậu ta bảo:

 

“Tôi biết là cậu sẽ chẳng làm một việc nào.”

 

“Không, không, cậu nói cái gì cũng rất có lý.”

 

“Cậu sẽ về đó và sống tiếp như cũ thôi. Rồi chúng ta sẽ lại ở đây giờ này năm sau và cậu sẽ lại rên rỉ về chính những chuyện đó.”

 

“Tôi đâu có rên rỉ…”

 

“Cậu biết đấy, Ray, người khác chỉ có thể khuyên cậu đến mức ấy thôi. Tới một lúc nào đó, cậu cần phải tự quản lấy đời mình.”

 

“Được rồi, tôi sẽ làm, tôi hứa. Nhưng lúc nãy cậu đang nói dở gì ấy nhỉ, một cái ơn…”

 

“À, phải.” Cậu ta nhai một cách tư lự. “Thành thật mà nói, đây mới là động cơ chính tôi mời cậu sang. Tất nhiên, gặp cậu thì rất mừng và vân vân. Nhưng với tôi, việc chính là, tôi muốn cậu giúp tôi việc này. Dù sao thì cậu cũng là bạn lâu năm nhất của tôi, bạn cả đời…”

 

Đột nhiên cậu ta lại cúi xuống ăn, và tôi sửng sốt nhận ra cậu ta đang khe khẽ khóc. Tôi đưa tay qua bàn chạm nhẹ vào vai cậu, nhưng cậu ta không ngừng lùa pasta vào miệng và không ngẩng đầu lên. Cứ như thế chừng một phút hay hơn, tôi lại đưa tay ra chạm khẽ thêm cái nữa, nhưng lần này cũng không hơn gì lần đầu. Rồi cô phục vụ xuất hiện với nụ cười tươi rói hỏi về thức ăn. Cả hai chúng tôi đều nói thức ăn tuyệt hảo và khi cô ta rời đi, Charlie có vẻ tương đối ổn.

 

“Được rồi, Ray, thế này. Việc tôi muốn nhờ cậu cực kỳ đơn giản. Tôi chỉ cần cậu ở bên Emily mấy ngày tới, làm một vị khách dễ mến. Thế thôi. Chỉ cần đến khi tôi quay lại.”

 

“Thế thôi à? Cậu chỉ nhờ tôi trông chừng cô ấy trong lúc cậu đi?”

 

“Thế đấy. Hoặc đúng hơn là, để cho cô ấy trông chừng cậu. Cậu là khách trong nhà. Tôi đã vạch ra mấy việc cho cậu làm. Vé xem hát và các loại khác. Tôi sẽ về muộn nhất là thứ Năm. Sứ mệnh của cậu chỉ là khiến cho cô ấy vui vẻ và giữ nguyên tâm trạng đó. Để cho lúc tôi về và nói, ‘Chào em yêu,’ và ôm cô ấy, cô ấy sẽ chỉ trả lời, ‘Chào anh yêu, mừng anh đã về, mọi việc thế nào,’ và ôm đáp lại tôi. Rồi chúng tôi có thể tiếp tục như trước kia. Trước khi cái chuyện khủng khiếp này xảy ra. Đấy là sứ mệnh của cậu. Thực tình là khá đơn giản.”

 

“Tôi rất vui lòng làm mọi điều trong khả năng mình,” tôi nói. “Nhưng này, Charlie, cậu có chắc là cô ấy đang ở tâm trạng muốn tiếp đãi khách khứa không? Rõ ràng là hai người đang ở trong một dạng khủng hoảng. Cô ấy chắc cũng phải phiền muộn như cậu. Chân thành mà nói, tôi không hiểu tại sao cậu lại mời tôi sang đây đúng lúc này.”

 

“Cậu nói gì, cậu không hiểu à? Tôi mời cậu vì cậu là bạn lâu năm nhất của tôi. Được rồi, phải, tôi có một đống bạn. Nhưng khi có chuyện như thế này, khi tôi nghĩ kỹ về việc đó, tôi nhận ra cậu là người duy nhất làm được.”

 

Tôi phải thừa nhận tôi có khá cảm động. Tuy thế, tôi vẫn cảm thấy có gì đó chưa hẳn tường tận trong chuyện này, có gì đó cậu ta còn chưa nói với tôi.

 

“Tôi có thể hiểu tại sao cậu mời tôi ở lại nếu cả hai người cùng ở đó,” tôi nói. “Tôi có thể hình dung việc đó. Hai người không nói chuyện với nhau, cậu mời khách đến để đánh lạc hướng, cả hai đều cư xử lịch sự nhất có thể, băng bắt đầu tan. Nhưng như thế này thì sẽ không thành công, vì cậu không có ở đây.”

 

“Cứ làm thế cho tôi, Ray. Tôi nghĩ là có thể thành công. Emily lúc nào cũng vui vẻ khi có cậu.”

 

“Vui vẻ khi có tôi? Cậu biết mà, Charlie, tôi muốn giúp cậu. Nhưng có lẽ là cậu hơi nhầm chuyện này rồi. Bởi tôi có cảm giác là, nói thẳng nói thật, Emily không vui vẻ khi có tôi tí nào, ngay cả những lúc khá nhất. Mấy lần gần đây tôi đến, cô ấy… chà, nóng nảy ra mặt với tôi.”

 

“Nghe này, Ray, cứ tin tôi. Tôi biết tôi đang làm gì.”

 

 

 

 

 

Khi chúng tôi về tới nơi thì Emily đã ở trong căn hộ. Tôi phải thừa nhận, tôi ngạc nhiên khi thấy cô đã già đi đến thế. Không chỉ là cô đã lên cân thấy rõ kể từ lần gặp trước: khuôn mặt cô, ngày xưa duyên dáng trời ban, bây giờ trễ xuống, hai khóe miệng vẽ một đường bất bình, như mặt một con chó bull. Cô đang ngồi trên ghế bành phòng khách đọc Thời báo kinh tế, và đứng dậy khá cau có khi tôi vào.

 

“Mừng gặp anh, Raymond,” cô nói, hôn phớt lên má tôi rồi lại ngồi xuống. Dáng vẻ cô khi làm động tác này khiến tôi chỉ chực bật ra một lời xin lỗi rối rít vì đã xâm nhập chẳng phải lúc như vậy. Nhưng trước khi tôi kịp nói gì, cô đã đập vào mặt ghế bên cạnh cô và nói, “Nào, Raymond, ngồi xuống đây trả lời cho tôi. Tôi muốn biết cặn kẽ anh đã làm những gì.”

 

Tôi ngồi xuống và cô bắt đầu tra khảo tôi, không khác gì Charlie đã làm ở nhà hàng. Charlie, trong lúc đó, đang xếp đồ cho chuyến đi, ra rồi lại vào phòng tìm các thứ đồ đạc. Tôi để ý thấy họ không nhìn nhau, nhưng cũng không thật khó chịu khi cùng ở trong một phòng, không như cậu ta nói. Và dù hai người không trực tiếp nói với nhau câu nào, Charlie chốc lại xen vào cuộc nói chuyện một cách kỳ quặc, nửa gián tiếp. Chẳng hạn, khi tôi đang giải thích cho Emily tại sao lại khó tìm được một người nữa thuê chung để giảm bớt tiền nhà, Charlie đứng từ trong bếp hét ra:

 

“Cái chỗ hắn ta ở, chẳng qua nó không đẻ ra cho hai người! Nó là nhà cho một người, và là một người có nhiều tiền hơn một chút so với những gì hắn ta mơ tới!”

 

Emily không đáp lại, nhưng chắc đã tiếp thu thông tin này, vì sau đó cô nói: “Raymond, anh lẽ ra không nên chọn một căn hộ như thế.”

 

Cảnh tượng này tiếp diễn ít nhất hai mươi phút nữa, Charlie đóng góp vào câu chuyện từ cầu thang hay trên đường đi ngang qua để vào bếp, thường là hét vào một câu nói về tôi ở ngôi thứ ba. Có một lúc, Emily đột nhiên nói:

 

“Ôi, thiệt tình Raymond. Anh cho phép mình bị bóc lột từ chân lên đầu ở cái trường dạy tiếng kinh khủng đó, anh cho phép lão chủ nhà cướp trắng trợn của anh, và anh làm cái gì? Dan díu với một cô ả đần độn rượu chè dớ dẩn và không có lấy cả việc làm để trang trải tiền rượu. Có vẻ như anh cố tình tìm cách chọc giận người nào vẫn còn lo lắng cho anh đấy phỏng!”

 

“Hắn không thể hy vọng cái giống người đó còn chưa tuyệt chủng, mẹ kiếp!” Charlie rống lên trong hành lang. Tôi nghe thấy cậu ta đã lôi va li ra đến đấy. “Có cư xử như trẻ vị thành niên một chục năm sau khi đã hết vị thành niên cũng không làm sao. Nhưng cứ tiếp tục như thế khi đã gần năm chục thì…!”

 

“Tôi mới có bốn mươi bảy…”

 

“Anh nói sao, anh mới có bốn mươi bảy?” Emily lớn giọng một cách không cần thiết khi tôi đang ngồi ngay cạnh. “Mới có bốn mươi bảy. Cái ‘mới có’ này chính là thứ hủy hoại đời anh đấy, Raymond. Mới có, mới có, mới có. Mới có bốn mươi bảy. Chẳng mấy chốc anh sẽ mới có sáu mươi bảy và vẫn giậm chân tại chỗ cố tìm lấy một cái hốc để nương thân!”

 

“Hắn cần dọn mình lại!” Charlie hét lên từ đầu cầu thang. “Xắn tay áo lên đến khi chạm được lông nách, mẹ kiếp!”

 

“Raymond, anh không bao giờ dừng lại nghĩ xem mình là ai à?” Emily hỏi. “Khi anh nhớ lại một triển vọng đã có, anh không xấu hổ ư? Nhìn xem anh sống như thế nào! Thật là… thật là bực mình hết chỗ nói! Nhìn anh mà thấy điên cả người!”

 

Charlie hiện ra trên bậc cửa, đã mặc áo mưa, và trong một lúc cả hai người cùng nhằm tôi mà la thét. Rồi Charlie dừng bất chợt, tuyên bố cậu ta đi đây - như thể đã phát ngấy tôi - và biến mất.

 

Cuộc xuất phát của cậu ta khiến tràng sỉ vả của Emily ngưng ngang, và tôi lợi dụng dịp này đứng dậy mà bảo: “Xin lỗi, tôi ra giúp Charlie mang hành lý.”

 

“Việc gì phải giúp tôi mang hành lý?” Charlie đáp từ hành lang. “Tôi chỉ có mỗi một cái túi.”

 

Nhưng cậu ta cũng cho tôi đi theo ra phố và bỏ tôi lại trông va li trong khi ra mép vỉa hè vẫy tắc xi. Không có vẻ gì là có cái nào sắp đến, và cậu ta vươn người ra lo âu, cánh tay treo trước mặt.

 

Tôi đến gần cậu ta bảo: “Charlie, tôi nghĩ chuyện này không ăn thua đâu.”

 

“Chuyện gì không ăn thua?”

 

“Emily rõ ràng là ghét tôi cùng cực. Mới gặp tôi vài phút mà đã thế. Ba ngày nữa thì cô ấy sẽ thế nào? Cậu tính sao mà lại nghĩ sẽ quay về trong hòa thuận và ánh sáng được?”

 

Ngay khi tôi vừa nói câu này, có thứ gì đó lờ mờ hiện ra trong tôi và tôi lặng yên. Nhận ra có thay đổi, Charlie quay lại nhìn tôi chăm chú.

 

“Tôi nghĩ là,” cuối cùng tôi nói, “tôi đã hiểu tại sao lại phải là tôi chứ không ai khác rồi.”

 

“A ha. Ray đã nhìn ra ánh sáng rồi, phải chăng?”

 

“Phải, có lẽ là thế.”

 

“Nhưng có sao đâu? Không có gì thay đổi, tuyệt đối không có gì, chuyện tôi muốn nhờ cậu ấy.” Bây giờ mắt cậu ta lại dâng nước. “Cậu có nhớ không, Ray, ngày xưa Emily luôn nói rằng cô ấy tin tưởng tôi? Cô ấy nói thế suốt nhiều năm ròng. Em tin tưởng anh, Charlie, anh có thể lên đến đỉnh cao, anh có tài thực sự. Cho đến cách đây ba, bốn năm, cô ấy vẫn còn nói thế. Cậu có biết nó thành ra nhức óc đến thế nào không? Tôi làm ăn ổn thỏa. Tôi vẫn đang làm ăn ổn thỏa. Cực kỳ tốt đẹp. Nhưng cô ấy cứ nghĩ tôi phải thành… Chúa trời ơi, thành tổng thống toàn thế giới hay gì đó, mẹ nó! Tôi chỉ là một gã bình thường đang làm ăn ổn thỏa thôi. Nhưng cô ấy không chịu hiểu thế. Đấy là cốt lõi của vấn đề, cốt lõi của mọi thứ đã đi xuống dốc.”

 

Cậu ta bắt đầu bước chầm chậm dọc hè phố, chìm đắm trong suy nghĩ. Tôi hối hả quay lại lấy va li mà kéo nó theo trên bánh xe. Phố còn khá đông nên tôi vất vả mới bắt kịp cậu ta mà không khiến va li đâm sầm vào những khách bộ hành khác. Nhưng Charlie cứ bước đều đều, không để ý đến khó khăn của tôi.

 

“Cô ấy nghĩ tôi đã buông thả mình,” cậu ta vẫn nói. “Nhưng đâu có thế. Tôi vẫn đang làm ăn phát đạt. Chân trời tít tắp là một điều tốt đẹp khi anh còn trẻ. Nhưng đến tuổi này rồi thì anh phải… anh phải có được một góc nhìn mới. Câu đó cứ mòng mòng trong đầu tôi mỗi lần cô ấy rầy rà đến mức không chịu nổi. Góc nhìn mới, cô ấy cần góc nhìn mới. Và tôi cứ nhắc đi nhắc lại với mình, nhìn xem, tôi đang làm ăn phát đạt. Nhìn sang bao nhiêu người khác xem, những người quen hẳn hoi. Nhìn Ray xem. Nhìn xem nó đang biến đời nó thành cái ổ lợn thế nào. Cô ấy cần góc nhìn mới.”

 

“Thế nên cậu mới quyết định mời tôi đến đây. Đóng vai ngài Góc Nhìn Mới.”

 

Lúc này thì Charlie dừng lại nhìn vào mắt tôi. “Đừng hiểu lầm tôi, Ray. Tôi không nói cậu là điển hình thất bại hay thế nào. Tôi nhận thức được cậu không phải là một gã nghiện hay một kẻ giết người. Nhưng đặt cạnh tôi, nói thực lòng, cậu không phải là thằng sáng giá hết cỡ. Vì thế nên tôi mới nhờ cậu, nhờ cậu giúp cho tôi việc này. Mọi thứ ở chỗ chúng tôi đều bị dồn đến chân tường rồi, tôi tuyệt vọng rồi, tôi cần cậu hỗ trợ. Mà tôi nhờ cậu cái gì chứ, hả Chúa? Chỉ nhờ cậu cư xử cho đúng bản chất đáng yêu của cậu thôi. Không gì hơn nữa, không gì kém nữa. Giúp tôi việc này, Raymond. Giúp tôi và Emily nữa. Giữa chúng tôi không phải thế là hết, tôi biết. Chỉ cần cư xử đúng như tính cậu một vài ngày đến lúc tôi về. Tôi đâu có đòi hỏi cậu quá nhiều, phải không?”

 

Tôi hít một hơi dài và nói, “Được rồi, được rồi, nếu cậu nghĩ như vậy có ích. Nhưng chẳng phải không sớm thì muộn rồi Emily sẽ nắm tẩy hết vụ này à?”

 

“Làm sao thế được? Cô ấy biết tôi có cuộc họp quan trọng ở Frankfurt. Với cô ấy chuyện này rất sáng tỏ. Cô ấy chăm nom một ông khách, có thế thôi. Cô ấy ưa làm thế và cô ấy ưa cậu. Kìa, có tắc xi.” Cậu ta vẫy tay như điên và trong lúc xe đánh lại, cậu ta nắm lấy tay tôi. “Cám ơn Ray. Cậu sẽ cứu vớt chúng tôi mà, tôi biết.”

 

 

 

 

 

Khi trở lại tôi thấy phong thái Emily đã thay đổi một trăm tám mươi độ. Cô mời tôi vào căn hộ như một người bà con rất cao tuổi và rất yếu ớt. Mỉm cười khuyến khích, vỗ nhẹ động viên và vân vân. Khi tôi nhận lời dùng trà, cô dẫn tôi vào bếp, đặt tôi ngồi vào bàn, rồi đứng đó một lúc nhìn tôi với vẻ mặt lo âu. Cuối cùng cô cũng nói, thật dịu dàng:

 

“Tôi xin lỗi lúc nãy đã nhảy bổ vào anh như thế, Raymond. Tôi không có quyền gì nói với anh vậy.” Rồi quay ra pha trà, cô nói tiếp: “Từ hồi chúng ta còn chung trường đại học đã nhiều năm rồi. Tôi cứ hay quên điều đó. Tôi không bao giờ dám nói với một người bạn khác bằng cái giọng ấy. Nhưng với anh thì, ừ, tôi nghĩ là cứ nhìn anh tôi lại tưởng chúng ta trở lại thời ấy, trở thành chúng ta thời ấy, và tôi quên mất. Anh đừng nghĩ ngợi gì nhé.”

 

“Không, không. Tôi không nghĩ ngợi gì đâu.” Tôi vẫn đang nghĩ về cuộc nói chuyện vừa xong với Charlie, nên chắc có vẻ xa vắng. Tôi nghĩ Emily hiểu lầm vì thế, bởi giọng cô càng dịu dàng hơn.

 

“Tôi xin lỗi đã làm anh giận.” Cô vừa nói vừa tỉ mỉ bày bánh quy thành từng hàng lên đĩa trước mặt tôi. “Chẳng qua là, Raymond ạ, ngày xưa ấy, chúng tôi có thể nói gì với anh cũng được, anh sẽ cười và chúng tôi cũng cười, và tất cả chỉ như một trò đùa vui. Tôi ngốc quá mới nghĩ bây giờ anh vẫn còn như vậy.”

 

“À, thực ra thì, tôi đúng là vẫn tương đối như vậy. Tôi không bận tâm đâu.”

 

“Tôi không nhận ra là,” cô nói tiếp, rõ ràng không để ý nghe tôi, “bây giờ anh đã khác nhiều lắm rồi. Bây giờ anh đã đến gần mép vực lắm rồi.”

 

“Thế này, Emily, thực tình tôi không đến nỗi thế…”

 

“Tôi nghĩ là những năm vừa qua đã khiến anh mắc cạn rồi. Anh giờ như người đứng bên miệng vực. Chỉ cần đẩy khẽ một cái là anh vỡ tan tành.”

 

“Là tôi ngã chứ.”

 

Cô loay hoay với cái ấm một lúc, nhưng lúc này thì quay lại chằm chằm nhìn tôi. “Không, Raymond, đừng nói thế. Nói đùa cũng không được. Tôi không muốn nghe anh nói như thế.”

 

“Không, cô hiểu lầm rồi. Cô bảo tôi sẽ vỡ, nhưng nếu tôi đang đứng trên miệng vực thì tôi sẽ ngã, chứ không phải vỡ.”

 

“Ôi, anh chàng đáng thương.” Cô vẫn có vẻ như không để lời tôi vào tai. “Anh chỉ còn là một cái bóng của Raymond ngày xưa.”

 

Tôi quyết định đến lúc này thì tốt nhất là không trả lời, và trong một lúc chúng tôi yên lăng chờ nước sôi. Cô pha cho tôi một cốc, dù không pha cho mình, và đặt cốc trước mặt tôi.

 

“Xin lỗi Ray nhiều, nhưng bây giờ tôi phải quay lại văn phòng đây. Có hai cuộc họp tôi không thể nào lỡ được. Giá tôi biết trước anh sẽ như thế nào, tôi đã không bỏ rơi anh. Tôi đã sắp xếp kiểu khác. Nhưng tôi chưa sắp xếp gì, bây giờ tôi phải quay lại. Raymond tội nghiệp. Anh sẽ làm gì ở đây, có mỗi mình anh?”

 

“Tôi sẽ cực kỳ ổn. Thật mà. Thực ra là tôi đang nghĩ, hay là tôi lo bữa tối trong lúc cô đi nhỉ? Chắc cô chẳng tin đâu, nhưng tôi bây giờ đã thành đầu bếp tài giỏi lắm. Thực tế là ngay trước Giáng sinh chúng tôi vừa có buổi buýp phê…”

 

“Anh tốt quá, lúc nào cũng muốn giúp đỡ. Nhưng tôi nghĩ tốt nhất là giờ anh nghỉ ngơi đã. Nói chung thì vào một cái bếp lạ có thể gây căng thẳng lắm. Tốt hơn là anh cứ thoải mái như ở nhà, đi tắm thảo dược, nghe nhạc một lúc. Tôi sẽ lo bữa tối khi nào về.”

 

“Nhưng cô đã mất cả ngày vất vả ở văn phòng rồi lại mệt mỏi vì bữa tối thì tệ lắm.”

 

“Không được, Ray, anh cứ nghỉ ngơi đi.” Cô lấy ra một tấm cạc vi dít đặt lên bàn. “Trên này có số trực tiếp của tôi, di động nữa. Tôi phải đi đây, nhưng anh gọi tôi lúc nào cũng được. Nhắc lại lần nữa, đừng làm gì căng thẳng trong lúc tôi đi.”

 

 

 

 

 

Ít lâu nay tôi đã thấy khó mà nghỉ ngơi đàng hoàng trong chính căn hộ mình. Nếu ở nhà một mình, tôi sẽ mỗi lúc thêm bứt rứt, lúc nào cũng nghĩ mình đang bỏ lỡ những cơ hội thiết yếu ở đâu đó bên ngoài. Nhưng nếu bị bỏ lại một mình trong một nhà lạ, tôi lại thấy mình chìm trong cảm giác yên bình dễ chịu. Tôi ưa nhất là được vùi mình trong lòng chiếc xô pha không quen, với một cuốn sách bất kỳ tình cờ nằm gần đấy. Và tôi đang làm đúng như vậy lúc này, sau khi Emily đi. Hoặc ít nhất thì tôi cũng đã đọc được vài chương Mansfield Park trước khi thiếp đi độ hai chục phút.

 

Khi tôi tỉnh dậy, mặt trời chiều đang chiếu vào căn hộ. Nhỏm dậy khỏi ghế, tôi bắt đầu một cuộc thám thính nho nhỏ. Có lẽ người quét dọn đúng là đã tới trong lúc chúng tôi ăn trưa, hoặc có thể Emily đã tự tay dọn dẹp; dù thế nào thì phòng khách rộng rãi lúc này trông đã sạch không tì vết. Ngoài chuyện gọn gàng ra, phòng đã được tô điểm khá có gu, với bàn ghế hàng hiệu kiểu hiện đại và các đồ nghệ thuật - dù nếu ác ý có thể bảo nhìn là thấy trưng ra chỉ để làm sang thôi. Tôi lướt một vòng qua các gáy sách, rồi ngó vào chồng CD. Gần như toàn bộ là rock hay nhạc cổ điển, nhưng cuối cùng, sau một hồi tìm kiếm, tôi cũng thấy nhét trong góc khuất là một xó nhỏ toàn Fred Astaire, Chet Baker, Sarah Vaughan. Tôi có băn khoăn không hiểu sao Emily lại không thay thế phần sót lại của bộ đĩa nhựa quý báu bằng hậu thân của chúng là đĩa quang, nhưng không nghĩ ngợi nhiều mà tha thẩn đi vào bếp.

 

Tôi đang mở từng tủ bếp tìm xem có bánh quy hay sô cô la gì không thì bắt gặp một thứ có vẻ như một cuốn sổ nhỏ trên bàn bếp. Nó bọc bìa da màu tím, nổi bật lên giữa những bề mặt bóng bẩy theo lối cực giản trong bếp. Emily, khi vội vội vàng vàng chuẩn bị đi, đã trút hết đồ trong túi ra rồi lại nhặt vào trong lúc tôi uống trà. Rõ ràng cô ấy bỏ lại quyển sổ vì sơ ý. Nhưng rồi gần như ngay tức khắc tôi nảy ra một ý nghĩ khác: rằng cuốn sổ tím này là một thứ nhật ký bí mật, và Emily đã cố tình bỏ lại đây, hoàn toàn nhằm để tôi liếc trộm vào; rằng vì lý do nào đó cô cảm thấy không thể tâm sự trực tiếp, nên đã dùng đến cách này để chia sẻ nỗi lòng bối rối của cô.

 

Tôi đứng đó một lúc, chăm chú nhìn quyển sổ. Rồi tôi đưa tay ra, lách ngón trỏ vào giữa các trang ở khoảng giữa và dè dặt hé nó ra. Nhìn thấy nét chữ sin sít của Emily bên trong tôi lại rút tay lại và tránh xa khỏi cái bàn, tự nhủ mình không có việc gì mà chõ mũi vào đấy, dù Emily có dự tính gì trong một phút điên rồ thì cũng thế.

 

Tôi quay lại phòng khách, ngồi xuống xô pha và đọc thêm vài trang Mansfield Park. Nhưng bây giờ tôi thấy mình không tập trung nổi. Tâm trí tôi cứ lởn vởn lại chỗ cuốn sổ. Nếu đấy không hề là một cử chỉ bộc phát thì sao? Nếu cô ấy đã chuẩn bị việc đó suốt nhiều ngày? Nếu cô ấy đã viết một thứ đặc biệt dành cho tôi đọc?

 

Sau khoảng mười phút, tôi quay lại bếp đứng nhìn cuốn sổ thêm một lúc. Rồi tôi ngồi xuống, chỗ lúc nãy đã ngồi uống trà, kéo cuốn sổ về phía mình, mở ra.

 

Một điều tôi nhanh chóng hiểu ra là nếu Emily có gửi gắm những tâm tình sâu kín vào nhật ký thì quyển nhật ký đó cũng nằm ở nơi nào khác. Trước mặt tôi đây cùng lắm thì cũng chỉ là một quyển lịch hẹn loại sang; trong mỗi ô ngày cô đều thảo đủ loại ghi nhớ cho mình, một số đọc lên đã thấy rõ tham vọng. Một đoạn ghi bằng bút dạ đậm: “Nếu vẫn chưa gọi cho Mathilda thì TẠI CÁI KHỈ GÌ CHỨ? GỌI ĐI!!!”

 

Một dòng khác: “Đọc nốt thằng điên Philip Roth. Trả lại Marion!”

 

Rồi, khi giở tiếp những trang khác, tôi đọc thấy: “Raymond thứ Hai sẽ tới. Lạy hồn.”

 

Tôi giở tiếp hai trang nữa và đọc thấy: “Ray mai đến. Làm sao gánh nổi?”

 

Cuối cùng, ngay sáng hôm ấy, giữa những đoạn nhắc việc lặt vặt khác: “Mua rượu vang chào mừng Vua mè nheo.”

 

Vua mè nheo? Tôi mất một lúc mới chấp nhận được cái này có thể thực sự trỏ vào mình. Tôi nghĩ thử đủ mọi khả năng khác - khách hàng chăng? hay thợ sửa ống nước? - nhưng cuối cùng, dựa trên ngày và ngữ cảnh, tôi buộc phải thừa nhận không có ứng cử viên nặng ký nào nữa. Thế rồi bỗng nhiên toàn bộ sự bất công của cái danh hiệu bị cô gán cho ấy giáng xuống tôi bất thình lình, và chưa kịp nhận ra thì tôi đã vò nát cái trang đáng ghét.

 

Đấy không phải một cử chỉ hung bạo cố ý: tôi thậm chí còn không xé nó ra. Tôi chỉ đơn giản là nắm tay lại, và một giây sau đã tự chủ được, nhưng tất nhiên, đến lúc ấy đã là quá muộn. Tôi xòe bàn tay ra và thấy không chỉ cái trang thủ phạm mà cả hai trang tiếp theo đã thành con mồi cho cơn cuồng nộ của tôi. Tôi cố vuốt phẳng mấy trang sổ lại như cũ, nhưng chúng liền nhăn trở lại ngay, cứ như chúng chỉ có một ước vọng sâu xa là được biến thành một búi giấy rác.

 

Dù sao nữa, phải mất một lúc, tôi cứ lặp đi lặp lại cử chỉ kinh hoàng tìm cách là phẳng những trang bị hại. Vừa đến lúc sắp thừa nhận làm thế chỉ uổng công vô ích - rằng giờ có làm gì cũng không che giấu được việc đã gây ra - thì tôi chợt nhận ra có điện thoại đang đổ chuông đâu đó trong căn hộ.

 

Tôi quyết định lờ nó đi, và cố nghĩ tận ngọn ngành những hậu quả của việc vừa xảy ra. Nhưng rồi máy trả lời tự động bật lên và tôi nghe thấy giọng Charlie đang để lại lời nhắn. Có thể tôi nhìn ra một phao cứu sinh, hoặc có thể tôi chỉ muốn có người chia sẻ, nhưng dù sao tôi cũng đã chạy bổ vào phòng khách và chộp lấy máy điện thoại trên bàn cà phê kính.

 

“Ồ, cậu có nhà.” Charlie có vẻ hơi bẳn vì tôi ngắt ngang lời nhắn.

 

“Charlie, nghe này. Tôi vừa làm một việc ngu ngốc.”

 

“Tôi đang ở sân bay,” cậu ta nói. “Chuyến bay bị hoãn. Tôi muốn gọi đến hãng xe sẽ đón tôi ở Frankfurt, nhưng tôi không có số của họ. Nên tôi cần cậu đọc cho tôi.”

 

Cậu ta bắt đầu chỉ dẫn tôi tìm sổ danh bạ ở đâu, nhưng tôi ngắt lời cậu ta và nói:

 

“Nghe này, tôi vừa làm một việc ngu ngốc. Tôi không biết phải làm gì.”

 

Bên kia im lặng mất một lúc. Rồi cậu ta bảo, “Có lẽ cậu đang suy nghĩ, Ray ạ. Có lẽ cậu đang suy nghĩ có một người thứ ba. Rằng bây giờ tôi đang đi gặp cô ta. Tôi chợt nghĩ ra rằng có thể cậu đang nghĩ thế. Suy cho cùng thì chuyện đó cũng khớp với mọi thứ cậu đã chứng kiến. Thái độ Emily lúc tôi đi, và những chuyện khác nữa. Nhưng cậu nhầm.”

 

“Được rồi, tôi hiểu ý cậu. Nhưng này, có một chuyện tôi cần nói với cậu…”

 

“Cứ chấp nhận đi, Ray. Cậu nhầm rồi. Không có người đàn bà nào cả. Tôi đang bay tới Frankfurt dự một cuộc họp để thay đổi đại diện ở Ba Lan. Bây giờ tôi đang đi đến đó.”

 

“Được rồi, tôi hiểu.”

 

“Chưa bao giờ có người đàn bà khác trong toàn bộ chuyện này. Tôi sẽ không bao giờ để mắt đến ai khác, ít nhất thì cũng không phải nghiêm túc. Đấy là sự thực. Đấy là sự thực, mẹ kiếp, và không có gì khác ngoài sự thực!”

 

Cậu ta bắt đầu hét lên mặc dù có thể đấy là vì đủ thứ tiếng động xung quanh trong sảnh khởi hành. Bây giờ thì cậu ta im lặng, và tôi căng tai nghe xem có phải cậu ta lại đang khóc không, nhưng tất cả những gì tôi nghe được là tiếng ồn sân bay. Bất chợt cậu ta nói:

 

“Tôi biết cậu đang nghĩ gì. Cậu đang nghĩ, được thôi, không có người đàn bà nào cả. Nhưng có người đàn ông nào không? Thế nào, thừa nhận đi, cậu đang nghĩ thế, phải không? Thế nào, nói đi!”

 

“Thực ra thì, không. Tôi không bao giờ tưởng tượng cậu lại là dân bóng. Ngay cả cái hồi thi tốt nghiệp xong cậu say bí tỉ và giả vờ…”

 

“Im mồm, đồ ngốc! Tôi nói một người đàn ông, như là Tình Nhân Của Emily chẳng hạn! Tình Nhân Của Emily, liệu cái nhân vật này có thể tồn tại được chăng, mẹ kiếp? Ý tôi là như thế. Và câu trả lời, theo phán xét của tôi, là không, không, không. Sau từng ấy năm, tôi hiểu cô ấy khá kỹ. Nhưng chuyện xấu là, chính vì hiểu cô ấy kỹ như thế, tôi có thể nhìn thấy chuyện khác nữa. Tôi có thể nhìn thấy cô ấy đang bắt đầu nghĩ về chuyện đó. Đúng đấy, Ray, cô ấy đang để mắt đến những thằng khác. Những thằng như là nỡm David Corey!”

 

“Đấy là ai?”

 

“Nỡm David Corey là một thằng luật sư giỏi xun xoe đang trên đà tấn tới. Tôi biết chắc là tấn tới đến mức nào, vì chính cô ấy nói với tôi tấn tới đến mức nào, từng chi tiết một!”

 

“Cậu nghĩ là… họ đang hẹn họ à?”

 

“Không, tôi vừa nói cậu xong! Không có gì cả, ít nhất là bây giờ! Mà đằng nào thì, nỡm David Corey cũng không hạ cố nhìn nhõ đến cô ấy. Hắn ta có vợ là một con chân dài của tạp chí Condé Nast.”

 

“Thế thì có sao…”

 

“Rất sao, bởi vì vẫn còn Michael Addison nữa. Rồi lại Roger Van Den Berg đang là ngôi sao sáng giá ở Merrill Lynch và đi dự Diễn đàn kinh tế thế giới hàng năm…”

 

“Thế này, Charlie, làm ơn nghe tôi. Tôi gặp phải một vấn đề thế này. Chuyện vặt vãnh thôi so với hầu hết mọi tiêu chuẩn, tôi biết. Nhưng vẫn là vấn đề, làm ơn nghe tôi.”

 

Cuối cùng tôi cũng kể được với cậu ta chuyện gì đã xảy ra. Tôi thuật lại mọi sự thật thà hết sức có thể, dù có lẽ tôi có lấp liếm đoạn Emily đã để lại một bức thư mật cho tôi.

 

“Tôi biết mình làm một việc ngu ngốc,” tôi nói, khi đã kể xong. “Nhưng cô ấy để nó ngay đấy, ngay trên bàn bếp.”

 

“Phải.” Charlie giờ có vẻ bình tĩnh hơn nhiều. “Phải. Cậu đã tự dẫn xác vào trận địa rồi.”

 

Rồi cậu ta cười. Được khuyến khích, tôi cũng cười theo.

 

“Tôi nghĩ là mình phản ứng hơi thái quá,” tôi nói. “Suy cho cùng, đấy không phải là nhật ký riêng tư hay gì cả. Đấy chỉ là cuốn sổ ghi chép…” tôi bỏ lửng vì Charlie lại tiếp tục cười, và trong tiếng cười của cậu ta có gì đó như là man dại. Rồi cậu ta ngưng lại và nói gọn:

 

“Nếu cô ấy tìm ra, cô ấy sẽ đòi xẻo dái cậu.”

 

Có một quãng dừng ngắn cho tôi lắng nghe tiếng ồn sân bay. Rồi cậu ta tiếp:

 

“Cách đây chừng sáu năm, chính tôi cũng mở cuốn sổ đó, hay cái tiền thân của nó năm ấy. Tình cờ thôi, trong lúc tôi ngồi trong bếp, còn cô ấy đang nấu cơm. Cậu hiểu không, chỉ là tôi lơ đãng lật nó ra trong lúc đang nói dở câu. Cô ấy nhìn thấy ngay và bảo rằng cô ấy không thích thế. Thực tế là chính lúc đó cô ấy bảo cô ấy sẽ xẻo dái tôi. Lúc đó cô ấy đang vung cái chày lăn bột, nên tôi liền chỉ ra rằng với cái vật cô ấy đang cầm thì làm cái việc cô ấy đang đe kia là chẳng tiện lắm. Lúc ấy cô ấy bảo cái chày lăn bột là để cho khúc sau. Là công đoạn hai sau khi dái đã bị xẻo.”

 

Tiếng báo chuyến bay cất lên ở đằng xa.

 

“Thế cậu bảo tôi nên làm gì chứ?” tôi hỏi.

 

“Cậu làm được gì? Cứ vuốt cho phẳng cái trang ấy. Có thể cô ấy sẽ không nhận ra.”

 

“Tôi đã thử rồi, không được gì. Không thể làm sao cho cô ấy sẽ không nhận ra…”

 

“Thế này, Ray, đầu tôi đang rối bời đây. Cái tôi định nói với cậu là tất cả bọn đàn ông mà Emily mơ tưởng, chúng nó không hẳn là để làm tình nhân. Chúng nó chỉ là những nhân vật cô ấy nghĩ là tốt đẹp vì cô ấy tin rằng chúng nó đã đạt được rất nhiều. Cô ấy không nhìn ra lớp mụn cóc của chúng. Cái… tàn bạo của chúng. Mà đằng nào chúng cũng trên tầm cô ấy. Vấn đề là, và đây là cái điều đáng buồn thảm hại và ngớ ngẩn nhất trong chuyện này, vấn đề là, dù gì thì gì, cô ấy yêu tôi. Cô ấy vẫn còn yêu tôi. Tôi biết mà, tôi biết mà.”

 

“Thế nghĩa là, Charlie, cậu không có lời khuyên nào cho tôi.”

 

“Không! Tôi không có lời khuyên chết mẹ nào cả!” Cậu ta lại đang rống hết cỡ. “Cậu tự đi mà nghĩ ra! Cậu cưỡi tàu bay của cậu còn tôi cưỡi cái của tôi. Rồi chúng ta xem cái nào rơi trước.”

 

Đến đó thì Charlie tắt máy. Tôi ngồi sụp xuống xô pha và hít một hơi dài. Tôi tự nhủ mình cần phải nhìn nhận rõ ràng mọi chuyện, nhưng ngay khi nghĩ thế tôi vẫn cảm thấy trong dạ dày một nỗi kinh sợ đến phảng phất buồn nôn. Nhiều ý nghĩ chạy qua đầu tôi. Có một giải pháp là chỉ việc chạy khỏi căn hộ, và không liên lạc gì với Charlie và Emily trong vài năm, sau đó tôi sẽ gửi cho họ một lá thư thận trọng, gọt giũa từng chữ. Ngay cả trong tình trạng hiện giờ, tôi cũng gạt bỏ kế hoạch này, vì nó quá sức tuyệt vọng. Một kế hoạch hay hơn là tôi lần lượt tấn công dãy chai trong tủ rượu, để khi Emily về đến nhà, cô sẽ thấy tôi say bí tỉ. Rồi tôi có thể tuyên bố đã đọc xong nhật ký của cô và tiêu diệt mấy trang sổ trong cơn mê sảng mùi cồn. Thực tế là, trong trạng thái say sưa bất cần lý lẽ, tôi còn có thể đóng vai trò bên bị hại, quác lác và chỉ trỏ, nói cho cô biết tôi đã bị sỉ nhục nặng nề đến mức nào khi đọc những dòng ấy, viết ra bởi người mà tôi luôn tin cậy vào tình yêu quý và nghĩa bạn bè, tình yêu quý và nghĩa bạn bè mà chỉ cần nghĩ đến thôi là tôi đã đủ sức trụ vững trong những giờ phút khốn nạn nhất giữa những đất nước xa lạ và cô độc. Nhưng mặc dù nhìn từ khía cạnh thực tiễn, kế hoạch này có những điểm hợp lý đáng kể, tôi vẫn cảm nhận được có một thứ khác - một thứ gì đó thẳm sâu bên trong, một thứ tôi không buồn suy xét quá nhiều - mà tôi biết sẽ khiến kế hoạch này tuyệt đối không khả thi.

 

Sau một lúc, điện thoại lại đổ chuông và giọng Charlie lại vang lên trong máy. Khi tôi nhấc máy cậu ta có vẻ bình tĩnh hơn đáng kể.

 

“Tôi đến cửa ra máy bay rồi,” cậu ta nói. “Tôi xin lỗi nếu lúc nãy tôi có hơi nhặng. Cứ đến sân bay là tôi như vậy. Không ngồi yên được cho tới khi ngồi ngay cạnh cửa. Ray, nghe này, tôi vừa nảy ra một ý này. Liên quan đến chiến lược của chúng ta.”

 

“Chiến lược của chúng ta?”

 

“Phải, chiến lược tổng thể của chúng ta. Tất nhiên, cậu đã nhận ra, đây không phải là thời khắc để nhào nặn sự thực tí chút để hình ảnh cậu bày ra được đẹp đẽ hơn. Tuyệt đối không phải lúc cho những lời nói dối vô hại tự tâng bốc bản thân. Không không. Cậu vẫn còn nhớ vì sao mà cậu lại được giao cho nhiệm vụ này từ đầu, phải không. Ray, tôi đang trông cậy cậu phô mình ra trước mắt Emily đúng như con người cậu. Miễn là cậu làm được thế thì chiến lược của chúng ta vẫn suôn sẻ.”

 

“Nào, thế này nhé, tình hình này chẳng có chuyện tôi sẽ nhanh chóng sắm được vai người hùng trong mắt Emily…”

 

“Phải, cậu hiểu rõ tình huống và tôi hết sức biết ơn. Nhưng có một ý nghĩ vừa nảy đến với tôi. Có một điều, một điều rất nhỏ trong vốn liếng của cậu sẽ không khớp vào đây. Cậu biết đấy, Ray, cô ấy có cảm tưởng rằng cậu có gu âm nhạc rất khá.”

 

“À…”

 

“Đấy là lần duy nhất trong đời cô ấy đem cậu ra bỉ tôi, về cái chuyện gu âm nhạc này. Đấy là mặt duy nhất ở cậu không phù hợp tuyệt đối cho công tác hiện nay của cậu. Thế nên Ray, cậu phải hứa với tôi không nói về đề tài này.”

 

“Ôi, Chúa ơi…”

 

“Giúp tôi việc này, Ray. Không có nhiều nhặn gì. Miễn đừng có gợi chuyện nói về cái… cái nhạc hoài cổ nỉ non cô ấy thích. Và nếu cô ấy gợi chuyện thì cậu cứ làm bộ đần cho tôi. Tôi chỉ nhờ có thế thôi. Ngoài ra, cậu cứ đúng như con người cậu. Ray, tôi có thể trông cậy cậu việc này, phải không?”

 

“Chà, tôi nghĩ là được. Đằng nào đây cũng chỉ là trên lý thuyết thôi. Tôi không nghĩ tối nay chúng tôi sẽ chuyện trò được về bất kỳ chuyện gì.”

 

“Tốt! Vậy thế là xong. Giờ thì chuyển sang rắc rối nhỏ của cậu. Cậu sẽ vui lòng mà biết rằng tôi đã nghĩ chút ít về chuyện đó. Và tôi đã nghĩ ra một giải pháp. Cậu có nghe không?”

 

“Có, tôi nghe.”

 

“Có một đôi vợ chồng cứ suốt ngày chạy qua. Angela và Solly. Họ cũng được, nhưng nếu họ không phải hàng xóm thì chúng tôi cũng chẳng giao du gì với họ. Mà nói chung là họ thường chạy qua. Cậu hiểu không, ghé vào mà không báo trước, mong được chén trà. Bây giờ đây là chuyện chính. Họ ghé qua vào những giờ bất tử trong ngày khi dẫn Hendrix đi dạo.”

 

“Hendrix?”

 

“Hendrix, hôi hám, mất kiểm soát, có xu hướng sát nhân, là một con chó giống Labrador. Với Angela và Solly, tất nhiên, sinh vật bẩn thỉu này là đứa con mà họ không có. Hoặc là đứa con họ chưa có, chắc họ vẫn còn đủ trẻ để có con thật. Nhưng không, họ lại thích cục cưng Hendrix cơ. Và khi họ ghé qua, cục cưng Hendrix đi khắp nhà tàn phá các phòng một cách tỉ mỉ như một gã trộm thất chí. Cái đèn đứng đổ rầm. Trời ơi, đừng lo, cưng ơi, con có sợ không? Cậu hiểu rồi đấy. Giờ thì nghe đây. Cách đây chừng một năm, chúng tôi có cái quyển an bum phòng khách, tốn gần cả gia tài, đầy ảnh nghệ thuật những thằng bóng trẻ tạo dáng ở tường thành Bắc Phi. Emily ưa mở nó ở đúng trang này, cô ấy nghĩ nó hợp với cái xô pha. Cô ấy sẽ nổi điên nếu ai lật sang trang khác. Nhưng rồi, cách đây chừng một năm, Hendrix đi vào và nhai gọn nó luôn. Thế đấy, cắn ngập răng vào mấy cái ảnh giấy bóng ấy, chén gọn hai chục trang cả thảy trước khi Mẹ Hiền thuyết phục được nó nhả ra. Cậu hiểu sao tôi lại kể chuyện này chứ, phải không?”

 

“Hiểu. Nghĩa là, tôi thấy có le lói đường ra, nhưng…”

 

“Được rồi, tôi nói tuột ra vậy. Cậu nói với Emily thế này. Chuông cửa reo, cậu ra mở, hai vợ chồng này ở đấy còn Hendrix đang giật dây. Họ bảo cậu họ là Angela và Solly, bạn tốt sang đòi tách trà. Cậu cho họ vào, Hendrix quậy tung, nhai mất quyển sổ. Hoàn toàn dễ hiểu. Có vấn đề gì đâu? Sao cậu chưa cảm ơn tôi? Không hoàn toàn làm ngài thỏa mãn ư, thưa ngài?”

 

“Tôi biết ơn cậu lắm, Charlie. Tôi chỉ đang nghĩ kỹ, thế thôi. Ví dụ chuyện này, nhỡ may những người ấy qua thật? Sau khi Emily đã về, ý tôi là thế?”

 

“Cũng có thể, tôi nghĩ thế. Tôi chỉ nói được là cậu sẽ không may, rất là không may nếu có chuyện đó xảy ra. Khi tôi nói họ suốt ngày chạy qua, ý tôi nhiều nhất là tháng một lần. Thế nên đừng bới lông tìm vết mà hãy biết ơn đi.”

 

“Nhưng Charlie này, chẳng phải sẽ hơi quá đáng nếu nghĩ con chó chỉ nhai mỗi quyển sổ, và lại đúng mấy trang ấy?”

 

Tôi nghe cậu ta thở dài. “Tôi cứ tưởng cậu không cần phải nói tuột ra hết. Tất nhiên là cậu phải sửa sang lại căn phòng chút ít. Đá đổ cái đèn đứng, rắc đường ra sàn bếp. Cậu phải làm như Hendrix đã gây mưa to gió lớn trong phòng. Này, họ gọi lên máy bay rồi. Tôi phải đi đây. Khi nào tới Đức rồi tôi sẽ gọi lại hỏi.”

 

Trong lúc nghe Charlie nói, một cảm giác bao trùm lấy tôi, giống như cảm giác mỗi lần nghe ai đó kể về giấc mơ đêm qua của họ, hay về sự tích cái vết trầy nho nhỏ trên cửa xe. Đấy là một kế hoạch rất hay - thiên tài là khác - nhưng tôi không thể ráp nối với những gì tôi sẽ thực sự nói hay làm khi Emily về, nên càng nghe tôi càng thêm sốt ruột. Nhưng khi Charlie đi rồi, tôi nhận ra cú điện thoại đã dụ tôi vào trạng thái thôi miên. Ngay giữa lúc trong đầu tôi đang đánh giá ý tưởng cậu ta là ngớ ngẩn, chân tay tôi đã vào tư thế sẵn sàng thực thi “giải pháp” đó.

 

Trước hết tôi đặt cái đèn đứng nằm xuống đất. Tôi cẩn thận tránh không làm nó va phải thứ gì, và tôi tháo cái chụp ra trước, đợi sau khi cái đèn đã nằm đâu ra đó trên sàn mới đặt trả lại sao cho hơi vênh một chút. Rồi tôi lấy một cái bình trên giá sách đặt xuống thảm, còn một ít cỏ khô trong lòng bình tôi vãi ra xung quanh. Tiếp đó tôi chọn một chỗ thích hợp gần bàn cà phê để “đánh đổ” bồ giấy vụn. Tôi thực hiện mọi thứ trong một trạng thái bàng quan kỳ lạ. Tôi không hẳn tin chuyện này sẽ có tác dụng gì, nhưng bắt tay vào hành động khiến tôi khuây khỏa. Rồi tôi nhớ ra cảnh phá hoại này có mục đích chính là cuốn nhật ký, liền trở vào bếp.

 

Nghĩ ngợi một lúc, tôi lấy một lọ đường trong tủ chạn, để lên bàn cách cuốn sổ màu tím một quãng, và từ từ nghiêng lọ cho đến khi đường tràn ra ngoài. Tôi mất một lúc để ngăn cái lọ không lăn khỏi bàn, và cuối cùng làm nó đứng yên. Đến lúc này, cơn hoảng sợ điên cuồng lúc nãy đã tiêu tan cả. Tôi vẫn chưa hoàn toàn thanh thản, nhưng đã cảm thấy mình phát rồ lên như lúc nãy thật là nực cười.

 

Tôi trở lại phòng khách, nằm xuống xô pha và lại cầm cuốn Jane Austen lên. Được vài dòng, tôi đã cảm thấy cơn buồn ngủ kinh khủng ập đến và chưa kịp nhận ra thì tôi đã chìm vào giấc ngủ.

 

 

 

 

 

Tôi tỉnh dậy vì có điện thoại. Khi nghe giọng Emily trên máy trả lời, tôi ngồi dậy nhấc máy.

 

“Ôi trời, Raymond, anh ở nhà thật à. Anh thế nào rồi, tình yêu ơi? Anh cảm thấy thế nào? Anh có nghỉ ngơi được không?”

 

Tôi cam đoan với cô là có, là tôi thậm chí còn đang ngủ khi cô gọi.

 

“Ôi thật đáng tiếc! Chắc là anh không được ngủ đẫy giấc mấy tuần rồi, thế mà vừa khi anh có được một chút yên tĩnh, tôi lại đi phá đám! Tôi thật lấy làm xin lỗi! Và tôi lại phải xin lỗi anh lần nữa, Ray, tôi sắp phải làm anh thất vọng. Ở đây đang rối tung lên nên tôi không về nhà sớm được như tôi muốn. Thực tế là tôi sẽ phải mất ít nhất một tiếng nữa. Anh đợi được chứ, phải không?”

 

Tôi khẳng định lại là tôi đang thoải mái và vui vẻ thế nào.

 

“Ừ, nghe giọng anh có vẻ bình tĩnh hơn thật. Tôi xin lỗi nhé, Raymond, nhưng tôi phải đi giải quyết xong vụ này đã. Anh cứ tự nhiên làm gì thì làm nhé. Chào nhé tình yêu.”

 

Tôi gác máy và duỗi hai tay. Ánh nắng bắt đầu nhạt dần, nên tôi đi khắp căn hộ bật các đèn. Rồi tôi ngắm nghía cái phòng khách bị “tàn phá”, và càng nhìn tôi càng thấy nó nhân tạo một cách rành rành. Nỗi hoảng sợ lại dâng lên trong dạ dày tôi.

 

Điện thoại lại đổ chuông, lần này là Charlie. Cậu ta đang đứng cạnh băng chuyền trong sân bay Frankfurt, cậu ta bảo tôi, đợi hành lý.

 

“Đợi cả thế kỷ rồi, mẹ kiếp. Chưa có lấy một cái túi nào xuống hết. Đằng cậu làm ăn thế nào rồi? Quý phu nhân chưa về à?”

 

“Chưa, chưa về. Thế này, Charlie, cái kế hoạch của cậu ấy. Không thành công đâu.”

 

“Cậu bảo gì, không thành công là thế nào? Đừng nói nãy giờ cậu chỉ ngồi bẻ ngón tay mà nghiền ngẫm nó chứ.”

 

“Tôi đã làm những gì cậu bảo. Tôi đã xới phòng lên, nhưng trông nó không thực. Trông không giống như có con chó vừa chạy qua, thế đấy. Chỉ giống như triển lãm sắp đặt.”

 

Cậu ta im lặng mất một lúc, có lẽ đang theo dõi băng chuyền. Rồi cậu ta nói: “Tôi hiểu băn khoăn của cậu. Đây là của cải của người khác. Cậu chùn lại là tất nhiên. Vậy thì thế này, tôi sẽ nêu vài món tôi rất sung sướng nếu được đập nát. Cậu có nghe không đấy, Ray? Tôi muốn những thứ sau đây bị phá. Cái con bò sứ ngu xuẩn ấy. Nó ở cạnh dàn CD. Đấy là quà của nỡm David Corey khi đi Lagos về. Cậu có thể đập cái đó coi như mở đầu. Mà thực ra, tôi cũng không cần biết cậu phá những gì. Phá mọi thứ cho tôi!”

 

“Charlie, tôi nghĩ cậu cần bình tĩnh lại.”

 

“Được rồi, được rồi. Nhưng cái căn hộ đó chứa đầy của vứt đi. Cũng y như cuộc sống chung của chúng tôi hiện giờ. Đầy của vứt đi cũ kỹ. Cái ghế xô pha đỏ nhồi mút, cậu biết tôi nói cái nào chứ, Ray?”

 

“Biết. Thực ra là tôi vừa ngủ trên đó xong.”

 

“Cái đó cần đi ra bãi rác từ thế kỷ nay rồi. Có thể cậu cần rạch cái vỏ ghế và quăng bừa hết ruột nhồi bên trong ra.”

 

“Charlie, cậu phải kiềm chế. Mà bây giờ tôi thấy là hình như cậu không định giúp tôi. Cậu chỉ đang lấy tôi làm công cụ để trút cơn giận và thất vọng…”

 

“Ôi thôi dẹp ý nghĩ ngớ ngẩn ấy đi! Tất nhiên là tôi muốn giúp cậu. Và tất nhiên kế hoạch của tôi cực kỳ hoàn hảo. Tôi đảm bảo với cậu sẽ thành công. Emily ghét con chó, cô ấy ghét cả Angela và Solly, nên cô ấy sẽ chào mừng mọi cơ hội có thể ghét họ hơn nữa. Nghe này.” Cậu ta đột ngột hạ giọng gần như thầm thì. “Tôi sẽ nói cho cậu quân chủ bài. Một công thức bí mật có thể đảm bảo là cô ấy tin. Lẽ ra tôi phải nghĩ đến nó từ trước. Cậu còn bao lâu?”

 

“Một tiếng gì đấy…”

 

“Được. Nghe kỹ này. Cái mùi. Thế đấy. Cậu phải làm cái nhà bốc mùi chó. Từ lúc cô ấy bước vào nhà, cô ấy sẽ nhận thấy nó, cho dù chỉ là vô thức. Thế rồi cô ấy bước vào phòng, nhận ra con bò sứ của David yêu quý nát vụn trên sàn, ruột bông cái ghế xô pha bẩn thỉu nằm khắp…”

 

“Thế này, tôi đâu có bảo tôi sẽ…”

 

“Im mà nghe! Cô ấy nhìn thấy căn phòng tan nát, và lập tức, dù có ý thức hay không, cô ấy sẽ liên hệ với cái mùi chó. Toàn bộ cảnh tượng Hendrix lúc trước sẽ sống động trở về với cô ấy, dù cậu chưa cần nói chữ nào. Kế hoạch tuyệt vời biết mấy!”

 

“Cậu đang lảm nhảm rồi, Charlie. Được rồi, nhưng làm sao tôi khiến cái nhà cậu hôi rình như chó được?”

 

“Tôi biết chắc phương pháp tạo ra mùi chó.” Cậu ta vẫn đang thì thầm một cách kích động. “Tôi biết chắc, vì tôi và Tony Barton vẫn thường làm thế hồi năm chót. Cậu ta có công thức riêng, nhưng tôi đã hoàn chỉnh nó.”

 

“Nhưng tại sao?”

 

“Tại sao à? Vì nó ngửi giống bắp cải hơn là chó, tại thế chứ tại sao.”

 

“Không, ý tôi là tại sao cậu lại… Thôi, bỏ qua chuyện đó. Cậu cứ nói cho tôi đi, miễn là không phải đi ra ngoài mua bộ dụng cụ hóa học.”

 

“Tốt lắm. Cậu đang nhập cuộc rồi đấy. Tìm cái bút đi, Ray. Viết này. A, cuối cùng thì nó đây rồi.” Chắc cậu ta đã bỏ điện thoại vào túi, bởi một lúc sau tôi chỉ nghe tiếng ồn khoang bụng. Rồi cậu ta trở lại nói tiếp.

 

“Tôi phải đi bây giờ đây. Thế nên viết này. Cậu sẵn sàng chưa? Cái nồi có cán cỡ vừa. Chắc là nó đã ở sẵn trên bếp rồi. Đổ khoảng một ca nước vào đấy. Thêm hai viên mỡ bò, một muỗng cà phê bột thì là, một muỗng ăn bột ớt ngọt, hai muỗng ăn giấm, lá nguyệt quế càng nhiều càng tốt. Được chưa? Bây giờ cậu bỏ vào một cái giày hoặc bốt da, úp ngược xuống, để đế giày không nhúng vào nước. Như thế để cho khỏi bị khét mùi cao su. Rồi cậu vặn bếp ga, đợi đến khi món lẩu thập cẩm ấy sôi, để nó đun nhỏ lửa. Chỉ một lúc sau là cậu sẽ thấy cái mùi. Không phải mùi kinh khủng lắm đâu. Công thức ban đầu của Tony Barton có cả sên trần, nhưng cái này tinh vi hơn. Chỉ như một con chó hôi thôi. Tôi biết rồi, cậu sắp hỏi kiếm đâu ra những của ấy. Gia vị các thứ ở cả trong tủ chạn trong bếp. Cậu đến chỗ tủ dưới gầm cầu thang là sẽ thấy một đôi bốt bỏ đi. Không phải đôi ủng cao su đâu nhé. Tôi nói đôi tã nát ấy, trông giống như giày cao cổ hơn. Ngày trước tôi dận nó cả ngày lẫn đêm. Đôi ấy đã hết thời rồi và chỉ đợi ngày ra bãi thôi. Lấy một trong hai chiếc. Làm sao nào? Này, Ray, cậu cứ làm đi, được chưa? Cứu lấy thân cậu. Vì cứ tin tôi. Emily nổi giận thì không phải chuyện đùa đâu. Tôi phải đi đây. À, và nhớ lấy. Không được khoa trương vốn âm nhạc thiên tài của cậu.”

 

Có lẽ đấy chỉ là nhờ tác động của một bảng chỉ dẫn rành mạch, dù có đáng ngờ: khi tôi gác máy, một cảm giác dửng dưng, sự vụ đã choán lấy tôi. Tôi có thể nhìn rõ mình cần làm những gì. Tôi đi vào bếp bật đèn. Đúng như cậu ta nói, cái nồi “cỡ vừa” đã đặt trên bếp, chờ nhiệm vụ tiếp theo. Tôi đổ nước đến nửa nồi, đặt lại lên bếp. Ngay trong lúc làm thế, tôi nhận ra mình còn phải xác định một điều nữa trước khi tiến xa hơn: đấy là tôi còn lại chính xác bao lâu để hoàn thành việc này. Tôi vào phòng khách, nhấc điện thoại bấm số công ty Emily.

 

Tôi gặp phải cô trợ lý, được cho biết Emily đang trong cuộc họp. Tôi khăng khăng, bằng một giọng vừa đủ ấm áp và vừa đủ cương quyết, đòi cô ta phải gọi cho được Emily ra, “kể cả trong trường hợp đúng là đang họp”. Một giây sau, Emily đã cầm máy.

 

“Cái gì thế, Raymond? Có chuyện gì à?”

 

“Không có chuyện gì đâu. Tôi chỉ gọi xem cô thế nào thôi.”

 

“Ray, nghe giọng anh lạ quá. Có gì thế?”

 

“Cô bảo sao, giọng tôi nghe lạ à? Tôi chỉ gọi để xem khi nào thì cô về thôi mà. Tôi biết cô coi tôi là đứa vô công rồi nghề, nhưng có một thời gian biểu thì tôi vẫn hoan nghênh chứ.”

 

“Raymond, không việc gì phải cáu kỉnh thế. Để tôi xem nào. Sẽ phải mất một tiếng nữa… Có thể là một tiếng rưỡi. Tôi xin lỗi lắm lắm, nhưng ở đây đúng là đang rối tung lên…”

 

“Một tiếng cho đến chín mươi phút. Thế là được rồi. Tôi chỉ cần biết thế thôi. Thế đấy, hẹn gặp lại nhé. Cô quay lại làm việc được rồi.”

 

Có lẽ cô còn định nói gì nữa, nhưng tôi đã gác máy và sải bước lại vào bếp, quyết chí không để tâm trạng cương quyết này tiêu tan. Thực tế là tôi đã bắt đầu cảm thấy phấn khởi rõ rệt, và không thể hiểu làm sao mình lại có thể rơi vào trạng thái suy sụp như lúc rồi. Tôi duyệt qua một lượt các tủ chạn và sắp hàng ngay ngắn cạnh bếp mọi thứ gia vị cần thiết. Rồi tôi đong lượng cần dùng, đổ vào nước, quấy qua một lượt, rồi lên đường đi tìm đôi giày.

 

Cái tủ dưới gầm cầu thang tàng trữ cả một chồng các loại giày dép mặt mũi thảm hại. Sau một lúc tìm bới, tôi đã thấy thứ đích xác là một trong hai chiếc bốt Charlie đã kê đơn - một mẫu vật trông đặc biệt tiều tụy, bùn từ thế kỷ trước đóng kín những rãnh gót. Nhón lấy bằng đầu ngón tay, tôi mang nó vào bếp và thận trọng đặt vào nồi nước, đế giày chổng lên trần nhà. Rồi tôi vặn lửa vừa đủ dưới nồi nước, ngồi vào bàn đợi nước sôi. Khi chuông điện thoại lại reo, tôi chần chừ không muốn rời khỏi cái nồi, nhưng rồi nghe giọng Charlie trên máy gọi đi gọi lại. Cuối cùng tôi cũng vặn nhỏ lửa và ra nhấc máy.

 

“Cậu vừa nói gì thế?” tôi hỏi. “Nghe có vẻ đang than thân trách phận, nhưng tôi đang bận quá nên không nghe thấy.”

 

“Tôi đến khách sạn rồi. Chỉ có ba sao thôi. Cậu nghĩ thế có láo không chứ! Công ty chúng nó thì to đùng! Mà cái phòng khách sạn cũng bé tí tẹo!”

 

“Nhưng cậu chỉ ở đó có vài đêm thôi…”

 

“Nghe này, Ray, có một chuyện khi nãy tôi không hoàn toàn thành thật. Như thế là không phải với cậu. Suy cho cùng thì cậu đang giúp đỡ tôi, cậu đang cố gắng hết sức vì tôi, giúp tôi hòa giải với Emily, mà tôi thì lại không chân thành với cậu.”

 

“Nếu cậu muốn nói công thức làm ra mùi chó thì muộn quá rồi. Tôi đã cho chạy rồi. Tôi nghĩ tôi cũng có thể thêm vào một hai thứ gia vị nữa…”

 

“Nếu tôi không thẳng thắn với cậu khi nãy thì đấy là vì tôi cũng không thẳng thắn với mình. Nhưng bây giờ khi đã ở xa thế này tôi đã có thể suy nghĩ mạch lạc hơn. Ray, tôi đã bảo cậu là không có ai khác, nhưng không phải thực sự là thế. Có một cô gái. Ừ, đúng là một cô gái, nhiều nhất là ngoài ba mươi. Cô ấy rất sốt sắng với vấn đề giáo dục ở thế giới thứ ba, và chính sách công bằng trong thương mại toàn cầu. Đấy không hẳn là hấp dẫn thể xác hay gì đấy, cái đó chỉ là hiệu ứng phụ thôi. Đấy là do tính lý tưởng trong sáng của cô ấy. Khiến tôi nhớ lại chúng ta đều đã từng như thế một thời. Cậu còn nhớ không, Ray?”

 

“Tôi xin lỗi, Charlie, nhưng tôi không nhớ có bao giờ cậu là con người đặc biệt lý tưởng. Thực ra thì cậu luôn luôn ích kỷ và ham khoái lạc đến khó chịu…”

 

“Được rồi, có lẽ chúng ta toàn là một tụi suy đồi hồi ấy, cả đám chúng ta. Nhưng cũng vẫn có cái con người khác này, đâu đó bên trong tôi, khao khát muốn ra. Đấy là thứ đã đưa tôi lại với cô ấy…”

 

“Charlie, khi nào vậy? Chuyện này xảy ra khi nào?”

 

“Chuyện gì xảy ra khi nào?”

 

“Chuyện cậu với cô ta.”

 

“Không có chuyện gì cả! Tôi không ngủ với cô ấy, không có gì hết. Tôi còn không đi ăn với cô ấy. Tôi chỉ… Tôi chỉ tìm cách để liên tục gặp lại cô ấy.”

 

“Cậu nói gì cơ, liên tục gặp lại cô ấy?” Tôi đã quay lại trong bếp và đang giám sát món lẩu thập cẩm.

 

“Ừ thì, tôi liên tục gặp lại cô ấy,” cậu ta nói. “Tôi liên tục đặt hẹn để gặp cô ấy.”

 

“Ý cậu là, cô ta là gái làm tiền.”

 

“Không, không, tôi đã bảo rồi, chúng tôi không ngủ với nhau. Không, cô ấy là nha sĩ. Tôi liên tục quay lại, liên tục nghĩ ra đủ thứ như là đau chỗ này, sưng chỗ kia. Cậu hiểu không, tôi cố tình kéo dài thời gian điều trị. Và tất nhiên, cuối cùng, Emily đoán ra.” Trong một giây, có vẻ như Charlie đang ngăn lại tiếng nấc. Rồi cậu ta bùng nổ. “Cô ấy phát hiện ra… cô ấy phát hiện ra… bởi tôi dùng chỉ nha khoa liên tục!” Bây giờ cậu ta gần như rú lên. “Cô ấy bảo, anh chưa bao giờ, chưa bao giờ cọ răng nhiều như thế!”

 

“Nhưng cái này vô lý. Nếu cậu chăm sóc răng nhiều hơn, cậu càng có ít lý do quay lại gặp cô ta…”

 

“Ai cần biết vô lý hay có lý? Tôi chỉ muốn làm cô ấy vui lòng!”

 

“Nghe này, Charlie, cậu không hẹn hò với cô ta, không ngủ với cô ta, thế thì có vấn đề gì?”

 

“Vấn đề là, tôi thèm muốn có một người như thế, một người sẽ đánh thức con người thứ hai trong tôi, con người đã bị giam hãm bên trong…”

 

“Charlie, nghe tôi nói này. Sau cú điện thoại lúc trước của cậu, tôi đã trấn tĩnh lại khá ổn rồi. Và thành thực mà nói, tôi nghĩ cậu cũng phải trấn tĩnh lại đi. Chúng ta sẽ bàn bạc lại mọi chuyện khi nào cậu về. Nhưng Emily khoảng một tiếng nữa sẽ về, và tôi phải chuẩn bị mọi thứ cho sẵn sàng. Tôi đã quản được mọi thứ ở đây rồi, Charlie. Tôi nghĩ cậu nghe giọng tôi cũng có thể đoán được.”

 

“Tuyệt diệu biết mấy! Cậu đã quản được mọi thứ. Tuyệt! Bạn với bè chết tiệt…”

 

“Charlie, tôi nghĩ cậu đang bực bội vì cậu không thích cái khách sạn. Nhưng cậu phải trấn tĩnh lại đi. Tìm góc nhìn mới. Và can đảm lên. Tôi đang quản được mọi chuyện ở đây. Tôi sẽ lo nốt chuyện chó, rồi tôi sẽ diễn vai của mình hoàn hảo cho cậu. Tôi sẽ nói, Emily. Cứ nhìn tôi này, Emily, cứ nhìn xem tôi thảm hại đến mức nào. Thực tế là, hầu hết mọi người đều thảm hại như thế. Nhưng Charlie, cậu ấy thì khác. Charlie thuộc một đẳng cấp khác.”

 

“Cậu không thể nói thế được. Nghe rất không tự nhiên.”

 

“Tất nhiên tôi sẽ không nói nguyên văn như thế, đồ ngốc. Thế này, cứ tin tưởng ở tôi. Tôi đã quản chắc được tình hình ở đây rồi. Thế nên bình tĩnh lại. Bây giờ tôi phải đi đây.”

 

Tôi gác máy và ra kiểm tra cái nồi. Nước bên trong đã sôi và hơi nước đã phì ra dày đặc, nhưng đến lúc này vẫn chưa thấy rõ một thứ mùi gì. Tôi điều chỉnh lửa cho đến lúc nước lục bục reo vui. Đến khoảng lúc này thì tôi đã đầy tràn mong muốn một chút không khí trong lành, và do vẫn chưa lên khám phá sân hiên nhà họ, tôi mở cửa bếp bước ra ngoài.

 

Thật lạ lùng là một buổi chiều đầu tháng Sáu nước Anh lại có thể dịu dàng đến thế. Chỉ có chút se lạnh trong cơn gió nhắc tôi nhớ mình vẫn chưa trở lại Tây Ban Nha. Trời chưa tối hẳn, nhưng sao đã điểm đầy trời. Bên kia bức tường bao lấy sân hiên, tôi có thể nhìn ra hàng dặm xung quanh, những cửa sổ và sân sau của khu nhà lân cận. Khá nhiều cửa sổ đã lên đèn, và những nhà ở xa, nếu nheo mắt lại, nhìn như một mảng trời sao sa xuống đất. Cái sân hiên này không lớn, nhưng có một cảm giác tuyệt đối lãng mạn. Anh có thể hình dung một cặp vợ chồng, giữa cuộc sống thị thành bận rộn, bước ra đây giữa một buổi chiều ấm áp và dạo quanh những chậu cây, tay trong tay, trao đổi những câu chuyện trong ngày.

 

Tôi có thể ở lại đây thêm nữa, nhưng tôi e sẽ đánh mất đà đang có. Tôi quay lại bếp, và bước qua cái nồi đang sôi, dừng lại ngưỡng cửa phòng khách quan sát thành tựu lúc trước. Sai lầm lớn nhất, tôi chợt nhận ra, là ở việc tôi hoàn toàn bỏ qua không xem xét công việc từ góc nhìn của một sinh vật như Hendrix. Chìa khóa của việc này, giờ tôi đã hiểu, là nhập thân vào tinh thần và con mắt của Hendrix.

 

Một khi đã khám phá theo hướng này, tôi không chỉ nhìn ra các nỗ lực kém cỏi của mình, mà còn thấy hầu hết các gợi ý của Charlie mới vô vọng làm sao. Với một con chó thừa năng lượng, lọc ra một con bò trang trí bé xíu đặt giữa bộ dàn hifi và đập vỡ nó để làm gì? Cả cái ý kiến rạch bụng xô pha và quăng ruột mút lung tung cũng hoàn toàn ngớ ngẩn. Hendrix phải có dao cạo thay răng thì mới làm được việc đó. Lọ đường đổ nghiêng trong bếp thì được, nhưng cái phòng khách thì cần tư duy lại từ đầu, tôi nhận ra như vậy.

 

Tôi khom mình đi vào phòng, để nhìn lại nó từ xấp xỉ tầm mắt của Hendrix. Ngay lập tức, chồng tạp chí giấy bóng đặt trên bàn cà phê bày ra như một mục tiêu lồ lộ, thế nên tôi hẩy chúng khỏi mặt bàn theo một đường vòng cung nhìn có vẻ như do cú huých của một cái mõm hung bạo. Mấy cuốn tạp chí rơi xuống mặt sàn trông chân thực một cách rất đáng hài lòng. Mạnh dạn thêm, tôi quỳ xuống, mở một cuốn và vò nát một trang, theo kiểu mà tôi hy vọng sẽ khiến Emily nhớ ra khi cuối cùng cô cũng đụng đến cuốn nhật ký. Nhưng thành quả lần này thật đáng thất vọng: nhìn là thấy ngay kết quả của bàn tay người chứ không phải hàm răng cẩu. Tôi đã lặp lại sai lầm lúc trước: tôi chưa đủ nhập thân vào Hendrix.

 

Thế nên tôi thụp xuống trên tứ chi, và cúi thấp đầu xuống cuốn tạp chí, đưa hàm răng ngoạm vào trang giấy. Vị nó thơm thơm, không khó chịu chút nào. Tôi giở thêm một cuốn khác gần giữa quyển và lặp lại việc đó. Kỹ thuật lý tưởng, bây giờ tôi nhận ra, cũng không khác gì ở sân chơi hội chợ ngày xưa khi anh cố đớp táo nổi dập dềnh trên mặt nước mà không dùng tay. Hiệu quả nhất là động tác nhẹ nhàng như đang nhai, quai hàm cử động liên tục và linh hoạt: như thế các trang sẽ rúm ró lại với những nếp nhăn hoàn hảo. Còn nếu dồn quá nhiều lực vào miếng cắn thì ngược lại, sẽ chỉ “dập” các trang lại với nhau mà không đạt được hiệu ứng tốt đẹp gì.

 

Tôi nghĩ chính vì quá mải mê phân biệt những điểm tinh tế đó mà tôi không nhận ra sớm hơn rằng Emily đã đứng trong hành lang, quan sát tôi ngay đằng sau cửa. Đến lúc nhận ra cô đang ở đó, cảm giác của tôi đầu tiên không phải là hoảng hốt hay ngượng ngập, mà là bực bội - tại sao cô cứ đứng đấy mà không có cử chỉ nào báo hiệu sự có mặt của mình. Thực tế là, khi nhớ lại mình đã mất công gọi điện đến công ty cô chỉ vài phút trước đó chính là để phòng ngừa cái tình huống đang rơi xuống đầu tôi đây, tôi thấy mình là nạn nhân của một mưu đồ lừa đảo. Có lẽ vì thế mà phản ửng ra mặt đầu tiên của tôi chỉ là thở dài nặng nhọc mà không hề cố gắng rời bỏ tư thế bốn chân hiện thời. Tiếng thở dẫn đường Emily vào phòng, và đặt bàn tay thật nhẹ nhàng lên lưng tôi. Tôi không hiểu cô có quỳ hẳn xuống không, nhưng khuôn mặt cô ghé rất gần mặt tôi và nói:

 

“Raymond, tôi đã về rồi. Thế nên chúng ta ngồi xuống đã, đồng ý không?”

 

Cô đang đỡ tôi đứng lên, và tôi phải cưỡng lại ý muốn hất cô ra.

 

“Cô biết không, thật là lạ quá,” tôi nói. “Mới vừa mấy phút trước, cô còn đang sắp tham dự cuộc họp cơ mà.”

 

“Lúc đó thì có. Nhưng sau khi anh gọi, tôi nhận ra ưu tiên hàng đầu là phải quay về.”

 

“Cô nói sao, ưu tiên à? Emily, làm ơn, cô không cần phải cứ giữ tay tôi như thế, tôi không ngã đùng ra đâu. Cô nói ưu tiên là phải quay về là sao?”

 

“Anh gọi đến. Tôi đã nhận ra đằng sau đó là gì. Tiếng cầu cứu.”

 

“Không có gì như thế cả. Tôi chỉ định…” Tôi bở lửng câu nói, vì nhận ra Emily đang nhìn quanh phòng với vẻ kinh ngạc.

 

“Ôi, Raymond,” cô thì thầm, gần như tự nhủ mình.

 

“Tôi nghĩ là lúc nãy tôi có hơi vụng chân vụng tay. Tôi đã định dọn rồi, nhưng cô về hơi sớm.”

 

Tôi thò tay xuống cái đèn vừa bị hất đổ trên sàn, nhưng Emily cản lại.

 

“Không sao đâu, Ray. Thực sự không có sao hết. Chúng ta rồi sẽ xử lý hết chỗ này sau. Bây giờ anh cứ ngồi xuống nghỉ ngơi đã.”

 

“Thế này, Emily, tôi hoàn toàn hiểu đây là nhà cô. Nhưng sao cô phải lẻn vào lặng lẽ thế?”

 

“Tôi đâu có lẻn vào, tình yêu à. Tôi có gọi khi vào nhà, nhưng có vẻ như anh không ở nhà. Thế nên tôi ghé vào toa lét và đến khi tôi ra, ừm, rõ ràng là anh có nhà. Nhưng nhắc lại chuyện đó làm gì? Đâu có chuyện gì quan trọng. Tôi đã ở đây rồi, và chúng ta có thể hưởng một buổi chiều yên ả. Xin anh ngồi xuống đi, Raymond. Tôi sẽ pha trà.”

 

Tới câu đó thì cô đã quay người đi về phía bếp rồi. Tôi còn đang loay hoay với cái chụp đèn nên phải một lúc mới nhớ ra có gì trong bếp - và lúc này thì đã muộn. Tôi lắng nghe chờ phản ứng của cô, nhưng chỉ thấy yên lặng. Cuối cùng tôi bỏ cái chụp đèn xuống và ra tới cửa bếp.

 

Cái nồi vẫn đang lục bục reo vui, luồng hơi nước cuộn lên quanh cái đế giày chổng ngược. Cái mùi, mà cho đến giờ tôi vẫn hầu như không nhận thấy, trong bếp nghe nặng hơn nhiều. Nó vừa hăng, hẳn là thế, lại vừa thoang thoảng mùi cà ri. Trên hết, nó gợi lên những lúc ta rút chân ra khỏi giày sau một chuyến cuốc bộ dài tắm mồ hôi.

 

Emily đứng tránh xa cái bếp vài bước, ngóng cổ lên để nhìn được cái nồi càng rõ càng tốt từ một khoảng cách an toàn. Cô như mải mê với nó, và khi tôi cười lên khe khẽ để báo hiệu mình có mặt, cô còn không nhìn sang tôi, đừng nói quay sang.

 

Tôi lách qua người cô và ngồi xuống bàn bếp. Cuối cùng, cô quay sang tôi với một nụ cười hiền dịu. “Đây là một ý tưởng đáng yêu hết sức, Raymond ạ.”

 

Rồi, như không tuân theo ý cô, ánh mắt cô lại bị kéo về phía bếp.

 

Tôi nhìn thấy trước mặt mình lọ đường đổ nghiêng - và quyển nhật ký - và một cảm giác mệt mỏi khủng khiếp tràn ngập lấy tôi. Mọi chuyện bất chợt đè trĩu lên tôi, và tôi quyết định lối thoát duy nhất là dẹp bỏ mọi trò vờ vịt mà thú nhận. Hít một hơi dài, tôi nói:

 

“Thế này, Emily. Cái khung cảnh này có vẻ hơi kỳ quái. Nhưng tất cả là vì cuốn nhật ký của cô. Cuốn này đây.” Tôi mở tới trang bị hại chỉ cho cô. “Đúng là tôi vô cùng có lỗi, và tôi thực sự rất hối hận. Nhưng tình cờ là tôi đã mở nó ra, và rồi, ừm, tình cờ tôi làm nhàu trang sổ. Như thế này…” Tôi nhại lại động tác lúc trước một cách đỡ tàn hại hơn, rồi nhìn sang cô.

 

Ngạc nhiên làm sao, cô chỉ liếc quyển sổ lấy một cái vội vã rồi quay lại cái nồi, miệng nói: “Ôi, chỉ là ghi chép lặt vặt thôi. Không có gì riêng tư đâu. Không cần phải lo về nó, Ray ạ.” Rồi cô tiến một bước tới gần hơn để quan sát cái nồi được kỹ hơn.

 

“Cô nói sao? Cô nói sao, không cần phải lo về nó à? Làm sao cô lại nói thế được?”

 

“Có chuyện gì thế, Raymond? Đấy chỉ là chỗ để tôi ghi chép vớ vẩn khỏi quên thôi mà.”

 

“Nhưng Charlie nói cô sẽ lên cơn thái diến!” Cơn phẫn nộ của tôi giờ gia tăng thêm bởi rành rành là Emily đã quên mất những gì cô viết về tôi.

 

“Thật à? Charlie bảo anh tôi sẽ nổi giận à?”

 

“Phải! Thực tình là anh ấy bảo có lần cô bảo anh ấy cô sẽ xẻo dái anh ấy nếu có bao giờ anh ấy ngó vào cuốn sách bé bỏng này!”

 

Tôi không rõ vẻ mặt ngơ ngác của Emily là vì điều tôi đang tuôn ra hay là do ngắm cái nồi. Cô ngồi xuống cạnh tôi và nghĩ ngợi một lúc.

 

“Không phải,” cuối cùng cô cũng nói. “Đấy là về chuyện khác. Giờ tôi nhớ rõ rồi. Khoảng giờ này năm ngoái, Charlie suy sụp vì một chuyện gì đó và hỏi tôi sẽ làm gì trong trường hợp anh ấy tự tử. Anh ấy chỉ thử tôi thôi, anh ấy hèn lắm không làm nổi chuyện đó đâu. Nhưng anh ấy hỏi, nên tôi bảo nếu anh ấy làm chuyện đó tôi sẽ xẻo dái anh ấy ra. Đấy là lần duy nhất tôi nói câu đó với anh ấy. Ý tôi là, không phải ngày nào tôi cũng hát bài đó đâu.”

 

“Tôi không hiểu. Nếu anh ấy mà tự tử, cô sẽ làm thế với anh ấy thật à? Sau khi đã xong?”

 

“Chỉ là cách nói thôi mà, Raymond. Tôi chỉ đang cố diễn tả tôi ghét cái chuyện anh ấy tự hạ thủ mình đến mức nào. Tôi cố làm anh ấy cảm thấy mình được trân trọng.”

 

“Cô không hiểu ý tôi. Nếu cô làm thế sau khi mọi sự đã xong thì đấy không hẳn là cách ngăn ngừa, phải không? Hoặc có lẽ cô đúng, đấy là cách…”

 

“Raymond, quên chuyện đó đi. Quên hết mọi chuyện này đi. Có món cừu hầm từ hôm qua, vẫn còn lại hơn một nửa. Tối qua ăn đã khá ngon, tối nay sẽ càng ngon hơn. Và chúng ta có thể mở một chai Bordeaux ngon tuyệt. Anh nghĩ đến chuyện nấu bữa tối cho chúng ta là hay lắm đấy. Nhưng thịt cừu hầm có lẽ là thích hợp với tối nay hơn cả, anh nghĩ sao?”

 

Mọi ý định giải thích bây giờ đã vượt quá sức tôi. “Được rồi, được rồi. Cừu hầm. Tuyệt diệu. Được, được.”

 

“Thế thì… giờ chúng ta cất cái này đi được không?”

 

“Được, được. Làm ơn. Xin cô cất nó đi.”

 

Tôi đứng dậy quay lại phòng khách - tất nhiên vẫn còn là cái bãi rác, nhưng tôi không còn sức lực để bắt tay dọn dẹp. Thay vào đó tôi nằm xuống xô pha và nhìn lên trần nhà. Có một lúc tôi nhận thấy Emily đi vào phòng, cứ nghĩ cô sẽ đi qua tới hành lang, nhưng rồi nhận ra cô đang cúi người trong góc phòng đằng kia, loay hoay với dàn hifi. Ngay sau đó, căn phòng đã tràn đầy tiếng đàn dây ngọt lịm, tiếng kèn ảo não, và giọng Sarah Vaughan hát “Lover man”.

 

Cảm giác nhẹ nhõm và ấm áp chiếm lấy tôi. Gật đầu đánh nhịp theo tiết tấu chậm, tôi nhắm mắt, nhớ lại bao nhiêu năm về trước, trong phòng ký túc của cô, cô và tôi đã cãi cọ hơn một giờ xem Billie Holiday có thật là luôn hát bài này hay hơn Sarah Vaughan không.

 

Emily chạm vào vai tôi và đưa tôi ly vang đỏ. Cô đã khoác tạp dề có bèo ra ngoài bộ đồ công sở và cũng cầm một ly cho mình. Cô ngồi xuống đầu bên kia xô pha, bên chân tôi, và nhấp một ngụm. Rồi cô lấy điều khiển vặn nhỏ tiếng.

 

“Thật là một ngày kinh khủng,” cô nói. “Tôi không chỉ nói công việc, cái đó thì rối tanh bành rồi. Tôi nói chuyện Charlie đi, mọi thứ. Đừng nghĩ tôi không buồn vì chuyện đó, anh ấy thì đi nước ngoài trong khi chúng tôi vẫn chưa làm lành. Rồi thì, chất thêm lên mọi thứ, cuối cùng anh cũng rơi nhào khỏi mép vực.” Cô thở ra một tiếng dài.

 

“Không đâu, thật đấy, Emily, không tệ đến thế đâu. Thứ nhất, Charlie coi cô hơn mọi thứ trên đời. Còn tôi thì, tôi khỏe. Tôi khỏe lắm.”

 

“Nhảm nhí.”

 

“Không, thật đấy. Tôi rất khỏe…”

 

“Ý tôi là chuyện Charlie coi tôi hơn mọi thứ trên đời.”

 

“Ờ, tôi hiểu. À, nếu cô nghĩ chuyện đó là nhảm nhí thì cô nhầm to rồi. Thực tế là, tôi biết Charlie yêu cô hơn lúc nào hết.”

 

“Làm sao mà anh biết được, Raymond?”

 

“Tôi biết vì… à, thứ nhất là anh ấy đã ít nhiều nói thế với tôi, khi chúng tôi ăn trưa. Và ngay cả nếu anh ấy không nói ra mồm thì tôi vẫn đoán được. Thế này, Emily, tôi biết mọi chuyện bây giờ đang hơi khó khăn. Nhưng cô phải nắm lấy điều cốt yếu nhất. Đấy là anh ấy vẫn yêu cô nhiều lắm.”

 

Cô thở dài thêm cái nữa. “Anh biết không, tôi không nghe đĩa này từ lâu lắm rồi. Đấy là tại Charlie. Nếu tôi mà bật loại nhạc này lên là anh ấy lập tức rên rỉ.”

 

Chúng tôi không nói gì thêm trong một lúc, chỉ lắng nghe Sarah Vaughan. Rồi khi chuyển sang phần giang tấu, Emily nói: “Tôi đoán là, Raymond ạ, anh thích bản kia hơn. Bản Sarah chỉ hát với piano và trống thôi ấy.”

 

Tôi không đáp, chỉ ngồi thẳng dậy một chút để dễ uống rượu hơn.

 

“Tôi đoan chắc là thế,” cô nói. “Anh thích bản kia hơn. Phải vậy không, Raymond?”

 

“Chà,” tôi nói, “tôi không biết nữa. Nói thật với cô, tôi không nhớ bản kia thế nào.”

 

Tôi cảm thấy được Emily cựa mình ở đầu xô pha. “Anh đùa, Raymond.”

 

“Nói ra thì buồn cười, nhưng dạo này tôi không nghe cái này nhiều lắm nữa. Thực ra là tôi đã gần như quên sạch nó rồi. Tôi còn không biết chắc bài đang chơi này là bài gì nữa.” Tôi cười một tiếng khẽ, nghe có vẻ không đạt lắm.

 

“Anh nói cái gì vậy?” Giọng cô bỗng nhiên cáu kỉnh. “Thật nực cười. Trừ phi đã phẫu thuật não thì thôi, không thể nào anh lại quên được.”

 

“À. Đã nhiều năm trôi qua rồi. Cuộc đời thay đổi.”

 

“Anh nói cái gì vậy?” Bây giờ giọng cô thoáng vẻ sợ hãi. “Không thể thay đổi nhiều thế được.”

 

Tôi đang khẩn thiết muốn chuyển chủ đề. Thế nên tôi nói: “Thật tiếc là công việc của cô lại đang rối lên.”

 

Emily không thèm quan tâm. “Nghĩa là anh nói gì cơ? Anh nói anh không thích cái này à? Anh muốn tôi tắt nó đi, phải thế không?”

 

“Không, không, Emily, đừng, nhạc hay lắm. Nó… nó khiến tôi nhớ nhiều điều. Xin cô, chúng ta hãy quay lại im lặng và thoải mái, như mới một phút trước.”

 

Cô thở dài lần nữa, và khi nói tiếp giọng cô đã lại dịu dàng.

 

“Tôi xin lỗi, bạn yêu quý. Tôi quên mất. Chỉ còn thiếu có nước đó, tôi đi quát tháo anh. Tôi xin lỗi lắm.”

 

“Không, không, không sao đâu.” Tôi đu người ngồi thẳng dậy. “Cô biết không, Emily, Charlie là một người đàng hoàng. Một người rất đàng hoàng. Và anh ấy yêu cô. Cô không thể có được gì hơn đâu, cô biết đấy.”

 

Emily nhún vai và uống một ngụm. “Chắc là anh nói đúng. Và chúng tôi không còn trẻ trung gì nữa. Chúng tôi cũng tệ như nhau thôi. Chúng tôi nên tự nghĩ là mình may mắn. Nhưng chẳng bao giờ chúng tôi thấy hài lòng. Tôi không hiểu vì sao. Vì mỗi lần nghĩ về chuyện đó, tôi đều nhận ra mình không cần một ai khác.”

 

Trong khoảng một phút sau đó, cô chỉ ngồi nhấp rượu và lắng nghe tiếng nhạc. Rồi cô nói: “Anh biết không, Raymond, những khi anh trong một buổi tiệc, giờ khiêu vũ. Có thể đấy là một điệu slow, và anh đang ở bên người anh thực sự muốn ở bên, và toàn bộ căn phòng đáng ra phải biến mất. Nhưng không hiểu sao nó không biến mất. Nó không chịu. Anh biết không có ai đáng yêu bằng nửa con người đang trong tay anh. Thế mà… ừm, có bao nhiêu người ở đầy mọi chỗ trong phòng. Họ không chịu để anh lại một mình. Họ cứ la hét và vẫy gọi và làm đủ trò ngu si bắt anh phải chú ý. ‘Ê! Làm sao cô lại bằng lòng với hắn được? Cô có thể oách hơn nhiều mà! Nhìn ra đây này!’ Giống như là họ cứ liên tục hét lên như thế. Và sự tình trở nên vô vọng, anh không thể cứ lặng lẽ khiêu vũ với người của anh. Anh có hiểu tôi nói gì không, Raymond?”

 

Tôi nghĩ một lúc, rồi trả lời: “Chà, tôi không gặp may như cô và Charlie. Tôi không có ai đặc biệt như hai người cả. Nhưng phải, cách nào đó, tôi có hiểu cô nói gì. Khó mà biết được đến đâu thì dừng lại. Đạt được cái gì thì dừng lại.”

 

“Chính thế. Tôi ước gì họ thôi đi, cái bọn không mời mà tới ấy. Tôi ước gì họ thôi đi và để chúng tôi yên.”

 

“Cô biết không, Emily, lúc nãy tôi không nói dối đâu. Charlie coi cô hơn mọi thứ trên đời. Anh ấy buồn bực vô cùng vì mọi chuyện giữa hai người dạo này không ổn.”

 

Cô gần như đang xoay lưng về phía tôi, và im lặng mất một lúc. Rồi Sarah Vaughan cất tiếng hát bài hát tuyệt diệu, có lẽ chậm rãi quá mức của mình, “April in Paris”, và Emily choàng dậy cứ như Sarah vừa gọi tên cô. Rồi cô quay sang tôi lắc đầu.

 

“Tôi không thể chấp nhận được, Ray. Tôi không thể chấp nhận được là anh lại không nghe loại nhạc này nữa. Chúng ta từng nghe tất cả những đĩa này hồi ấy. Trên cái máy quay đĩa nhỏ mẹ mua cho tôi trước khi vào đại học. Làm sao anh quên dễ dàng thế được?”

 

Tôi đứng dậy đi tới cánh cửa kính đôi, ly vẫn cầm trên tay. Khi nhìn ra sân hiên, tôi nhận ra mắt mình đã dâng đầy nước. Tôi mở cửa bước ra ngoài để có thể lau đi mà không bị Emily nhìn thấy, nhưng lúc đó cô đi theo ngay đằng sau, nên có thể cô vẫn thấy, tôi không biết nữa.

 

Buổi chiều nay ấm áp một cách yên bình, và Sarah Vaughan cùng dàn nhạc lững lờ theo ra sân hiên. Sao trời sáng hơn trước, và ánh đèn khu lân cận vẫn lấp lánh như một mảng sao sa xuống đất.

 

“Tôi tuyệt đối thích bài này,” Emily nói. “Tôi nghĩ chắc anh quên cả bài này rồi. Nhưng nếu anh có quên nữa, thì anh cũng có thể nhảy theo nhạc, phải không?”

 

“Được. Tôi nghĩ là nhảy được.”

 

“Chúng ta có thể giống như Fred Astaire và Ginger Rogers.”

 

“Đúng thế.”

 

Chúng tôi đặt hai ly rượu lên cái bàn đá và bắt đầu nhảy. Chúng tôi nhảy không giỏi lắm - chúng tôi liên tục va đầu gối vào nhau, nhưng tôi ôm Emily thật gần, và các giác quan tôi xông đầy cảm giác về áo quần cô, tóc cô, làn da cô. Ôm cô thế này, tôi lại nhận ra lần nữa cô đã lên cân thế nào.

 

“Anh nói đúng, Raymond,” cô nói, thầm thì vào tai tôi. “Charlie không sao cả. Chúng tôi phải tìm cách giải quyết.”

 

“Đúng thế.”

 

“Anh thật là một người bạn tốt, Raymond à. Không có anh chúng tôi biết phải làm sao?”

 

“Nếu tôi là một người bạn tốt thì tôi mừng lắm. Vì ngoài ra thì tôi chẳng làm tốt cái gì cả. Thực ra thì tôi khá là vô dụng, thật đấy.”

 

Tôi cảm thấy cô kéo mạnh vai mình.

 

“Đừng nói thế,” cô thì thầm. “Đừng suy nghĩ như thế.” Rồi một lúc sau, cô nhắc lại. “Anh thật là một người bạn tốt, Raymond.”

 

Đây là bản “April in Paris” của Sarah Vaughan thu âm năm 1954, với Clifford Brown thổi kèn trumpet. Thế nên tôi biết bài này khá dài, ít nhất phải tám phút. Tôi thấy vui lòng vì chuyện đó, bởi tôi biết rằng sau khi nhạc hết chúng tôi sẽ không còn nhảy nữa, mà sẽ vào nhà ăn cừu hầm. Và biết đâu đấy, Emily có thể xem xét lại việc tôi đã làm với cuốn nhật ký, và lần này quyết định rằng đó không phải là một tội lỗi vặt vãnh nữa. Làm sao tôi biết được? Nhưng ít nhất trong vòng vài phút nữa, chúng tôi vẫn an toàn, và chúng tôi đang nhảy dưới bầu trời đầy sao.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Nhấn vào giữa màn hình để hiển thị Tùy chọn đọc.
Theo dõi Đọc Sách Hay trên Facebook, mỗi ngày chúng tôi cập nhật những cuốn sách, truyện hay nhất!

Có thể bạn thích