Nhân Tướng Học
Chương 5: Ứng Dụng Nhân Tướng Học

I. ỨNG DỤNG NHÂN TƯỚNG HỌC VÀO VIỆC XỬ THẾ

A) Quan sát cá tính bằng hữu

1. Loại bằng hữu hiệp nghĩa

Loại tướng bạn bè có tính hiệp nghĩa được biểu lộ ra ngoài bằng các đặc điểm sau đây:

Cặp Lông Mày thô nhưng nhìn kỹ thì thấy thanh tú và oai vệ; ánh mắt sáng nhưng không lộ, nhìn người hay vật đều nhìn thẳng mục tiêu; Mũi và Lưỡng Quyền cao thấp tương xứng với nhau; tiếng nói rõ ràng mạnh mẽ. Thấy việc phải dám làm dám nói, không sợ quyền uy, không ham tiền bạc.

2. Loại bằng hữu khảng khái:

Đặc điểm của bạn bè có tính khảng khái bao gồm:

Mày đẹp trán rộng, ánh mắt cương cường nhưng không lạnh lẽo; Mũi thẳng và cao, phối hợp đúng cách với Lưỡng Quyền; tính tình độ lượng, thấy việc đại nghĩa dám bất chấp mọi hiểm nguy, đứng ra đảm trách, thấy kẻ nguy khốn về tiền bạc dám dốc hết túi giúp đỡ một cách tị nhiên mà không hối tiếc.

3. Loại bằng hữu trung hậu:

Về mặt hình thức, loại bạn bè trung hậu thường có các đặc điểm: Lông Mày dài và thanh tú phối hợp thích nghi với cặp mắt không bị khuyết hãm về hình thể; mục quang ôn hòa nhưng không kinh khiếp; về mặt nội tâm, kẻ đó dù biết rõ bạn bè có long lam hay biển lận mà không tổn hại trực tiếp đến mình thì sẽ làm thinh, không vạch trần thói xấu của bạn bè cho người khác; không cưỡng cầu, không hại người để lợi cho bản thân, đối với bạn bè gặp lỗi nhỏ thì bỏ qua, gặp lỗi lớn thì thẳng tai phản kháng.

4. Loại bằng hữu gian xảo, âm hiểm:

Ngoại biểu của hạng bạn bè kể trên là cặp Lông Mày thô và đậm quá mức bình thường, lòng trắng có nhiều tia máu hồng hoặc đỏ; mũi gẫy lệch; Chuần Đầu méo mó; ánh mắt thường liếc xéo, không nhìn trực diện kẻ đối thoại, thích chơi gác người, thích nói xấu sau lưng người hoặc tọc mạch những chuyện kín của người không liên quan gì tới mình.    

5. Loại bằng hữu an phận thủ thường:

Loại này có bề ngoài dễ nhận thấy nhất là Mũi nhỏ nhưng ngay thẳng, Lưỡng Quyền hẹp và thấp, Nhãn cầu nhỏ không sáng, ánh mắt không giao động và ít biến thông; Miệng nhỏ, Môi mỏng. Về cá tính, kẻ đó không dám mạo hiểm bất kể việc gì lớn nhỏ.

 

6. Loại bằng hữu vô tình hoặc bạc tình:

Loại này gần như toàn thể khuôn mặt đều mỏng manh. Mày thưa thớt và nhỏ, da mặt mỏng; Mũi gãy, dài và gần như không có thịt; mang tai bạnh ra rất rõ (nhìn từ sau vẫn còn thấy); về mặt tâm tướng, kẻ đó bất cứ làm điều gì cũng chỉ biết có mình mà không biết tới người khác; hơn người chút đỉnh thì hớn hở còn thua sút thì bực dọc thịnh nộ.

7. Loại bằng hữu tính nết hồ đồ:

Loại bạn hữu có tính hồ đồ nghĩa là kẻ không am tường việc đời; không có chủ kiến, dễ bị thuyết phục. Bề ngoài của tướng người như trên là Lông Mày mịn, nhỏ, mọc lan xuống bờ mắt; xương Lưỡng Quyền nhỏ, thấp; lòng trắng, tròng đen không rõ ràng, ánh mắt không có thần quang;  giọng nói thiếu âm lượng, bước chân thiếu ổn định. Đó là loại người không phân biệt được tốt xấu rõ ràng.

 

B. Quán sát cá tính người giúp việc:

1. Tướng người ngay thẳng:

Tướng tổng quát của loại người giúp việc ngay thẳng là Ngũ Quan đoan chính; nhất là Mũi cần đặc biêt chú ý; Mũi ngay ngắn nhưng hếch hoặc Chuần Đầu như mỏ chim ưng là tướng Ngụy quân tử cho dù Ngũ Quan ngay thẳng.

Trong trường hợp Mũi không có dạng mỏ chim, Ngũ Quan đoan chính, ta vẫn phải dè dặt nếu chưa quan sát kỹ càng ánh mắt và ngôn ngữ. Kẻ mà ánh mắt ngay  thẳng, ăn nói không ba hoa rườm rà mới là người tâm địa ngay thẳng, thiện lương thực sự.

2. Tướng người ngu đần:

Cặp Lông Mày đậm và lan xuống bờ mắt; Mắt ngắn và nhỏ; Môi vẩu; Răng khấp khểnh; cử chỉ chậm lụt, cứng nhắc như cây gỗ mục; nói năng hàm hồ.

3. Tướng người ngang bướng:

Các bộ vị giúp ta quan sát được tính người ngang bướng là Lông Mày và Mắt. Lông Mày thô đạm hoặc nghịch loạn, hoặc xương chân mày quá cao, quá thấp; Mắt lồ hoặc tròn lớn hoặc lòng trắng hơi vàng đều là dấu hiệu khá chính xác.

4. Tướng người háo sắc:

Loại tướng háo sắc được biểu lộ ngoại biểu như hai amứt mục thần si dại như người ngái ngủ (túy nhãn) hoặc ánh mắt ướt sát hoặc có dạng thức Đào hoa nhãn, trang phục chau chuốt quá đáng; mỗi khi nhìn thấy phụ nữ có chút nhan sắc hấp dẫn thì ánh mắt đưa đẩy, nói cười đon đả cầu thân dù rằng mới chỉ hội kiến lần đầu...đều là dấu hiệu bề ngoài của kẻ háo sắc.

 

5. Tướng người giao tế giỏi:

Mày thanh, Mắt sáng, Môi mỏng, Rằng đều, nói năng hoạt bát, sắc mặt tươi tỉnh dễ thân cận… đều là biểu hiện của sự giao tế  khéo léo. Loại người này có thể tốt hay xấu tùy theo mục đích mà họ theo đuổi. Nếu có thiện ý không mưu cầu tư lợi, loại này sẽ giúp được nhiều cho thượng cấp. Trái lại nếu chỉ nhằm tư lợi, sử dụng tài hoạt bát để gièm pha khéo léo bạn đồng sự, lấy lòng thượng cấp thì khi có cơ hội kẻ đó sẽ là kẻ bạc nghĩa. Muốn phân biệt tốt xấu phải xem kỹ tác phong quan sát ánh mắt khi đối thoại.

6. Tướng người dễ phản phúc:

Dấu hiệu bề ngoài là cặp mắt lồi và đỏ, nhìn người tia mắt thường nhướng lên hoặc nhìn xuống, hay liếc xéo nhìn trộm chứ không bao giờ nhìn trực diện thượng cấp; Lông Mày thưa thớt; Lưỡng Quyền nổi ngang hoặc gồ cao không tương xứng với khuôn mặt; trán có loạn văn; Sống mũi nghiêng lệch cong queo; mang tai nảy nở bất thường; tác phong giảo hoạt. Càng có nhiều đặc trưng nói trên càng dễ quuyết đoán. Tuy nhiên, chỉ cần một hai dấu hiệu rõ rệt cũng đủ khiến ta phải đề phòng tránh hậu họa.

7. Tướng người phục tùng:

Mục quang ôn hòa; Mũi không lệch, Quyền không cao; không ham ăn uống, không ngại khó, không bao giờ tỏ vé oán hận ai đều là các dấu hiệu của sự phục tùng thượng cấp một cách ngay tình. Đây là mẫu người thừa hành lý tưởng cho các công việc thông thường.

8. Tướng người ích kỷ, tư lợi:

Ích kỷ, tư lợi là thiên tính của con người, nhưng tướng người ịc kỷ tư lợi nói ở đây là loại người chỉ biết có mình, bất chấp tha nhân hậu quả. Dấu hiệu bè ngoài của kẻ đó là:

- Đi đứng thường lao đầu về phía trước, đầu cúi thấp hoặc thường ngó lui trở lui.
- Cặp mắt trắng nhiều đen ít.
- Mũi nếu hình dáng nhỏ thì lệch, nếu lớn thì quặo xuống như mỏ chim ưng.
- Bình thường nếu sai việc nhỏ thì tỏ ra siêng năng, ngoài mặt ra vẻ thành khẩn nếu việc đó khiến chủ nhân hay thượng cấp tin cậy thêm vào khả năng của mình.

9. Tướng người có tinh thần trách nhiệm:

Đa số người có tinh thần trách nhiệm đều có mặt mũi sáng sủa: Mục quang thuộc loại “tành nhi bất hối hoặc cương nhi bất cô” (nghĩa là mục quang sáng nhưng vẻ sáng không qua lộ liễu, nhìn qua ánh mắt khiến người phải kính nể nhưng không gây ra sự úy kỵ mất tình cảm). Mũi của loại ngươi này có thể lớn hoặc nhỏ nhưng nếu lớn phải cao, nếu nhỏ phải không lộ khổng và phối hợp tương xứng với Lưỡng Quyền; khi làm việc thì chuyên tâm, không khinh xuất, thần khí trầm ổn.       

Ngược lại kẻ làm việc thiếu trách nhiệm thì Lông Mày thô và quăn queo; mục thần lúc nào cũng như kinh hãi; Mũi và Lưỡng Quyền bất cân xứng; tác phong lỗ mãng, cư xử thô bỉ.

10. Tướng người cơ trí, ứng biến linh hoạt:

Loại người này có đặc điểm dễ nhận thấy là mi thanh, mục tú cặp mắt sáng sủa linh hoạt, đen trắng phân minh, sống mũi thẳng như ống trúc và không lệch lạc (tiêm đồng tỵ) phối hợp thích nghi với Lưỡng Quyền, Trán rộng và cân xứng; mục quang thuộc loại “phát nhi bất lộ, Nộ nhi bất tranh”; âm thanh trong sáng ấm cúng.

Đây là tướng người có thể giao phó các trọng trách. Đi xa thêm một chút, nếu có thêm Sơn Căn cao, Địa Các đầy đặn, vững vàng, không vát không gồ thì chẳng những kẻ đó hội đủ khả năng đảm nhận trọng trách một cách hữu hiệu mà còn duy trì trường cửu được địa vị quan trọng. Nếu Sơn Căn thấp, Địa Các không đầy đặn và triều củng thì tuy có khả năng đảm nhận trọng trách, nhưng vì vận mạng vãn niên không tốt nên không thể ở lâu trong nhiệm vụ quan trọng, bởi lẽ Địa Các chủ về vãn vận.

Ngược lại những kẻ mắt vượn, nhìn vật mà hếch mặt lên trời, cử chỉ khắc bạc trí trá, nói nhiều mà âm điệu thô trọc thì giao cho việc nhỏ có thể chu toàn, nhưng chấp chưởng đại quyền sẽ làm hư việc lớn.

11. Tướng người gian tham độc hai:

Loại người có tính gian tham được biểu lộ ra ngoài đầu nhỏ nhọn; Lông Mày xoắn tít; mắt có sắc hơi vàng; tia mắt nhìn xuống hoặc liếc xéo; mắt hình tam giác; mũi ngắn và thấp; Địa Các nhỏ nhọn. Loại người này khá khôn khóe; lượng việc giỏi nhưng hay có gian kế và có lòng tham.

Tâm tính độc hại được thể hiện qua mắt rắn hoặc có dạng tam giác; Mi cốt cao mà Lông Mày thô đậm hoặc mọc ngược hoặc vút lên như đao; Mũi cao nhưng hẹp; Chuần Đầu trơ xương hoặc cong như mỏ chim ưng; Tai thuộc loại Khai hoa nhĩ; da mặt lúc nào cũng tái xạm (do thiên bẩm chứ không phải vì bệnh hoạn hay mất ngủ).

12. Tướng người nhút nhát sợ việc:

Kẻ có tướng nhát gan, sợ việc là kẻ có nhãn cầu nhỏ và mắt có sắc vàng rõ rệt, lòng trắng tròng đen thiếu sáng sủa, thân hình cao rộng mà Mũi lại nhỏ thấp, nói năng thiếu thành tín, tham lam tiểu lợi.

Nói chung loại người này không hẳn là xấu nhưng không thể coi là đủ điều kiện để giao việc. Nếu vì ân tình mà kết nạp dưới trướng hay cho giúp việc trong nhà thì cần quan sát thêm một vài điểm sau đây:

Kẻ có tướng nhát gan nhưng đầu tròn và không lệch lạc, mắt rùa, thân hình ngắn nhỏ, nói hay co đầu rụt cổ một cách tự nhiên là tướng rùa (quy cách). Kẻ đó tuy làm việc không giỏi nhưng tính nết hòa bình, đa phúc, đa thọ, không đem lại nguy hiểm cho người sử dụng.

 

13. Tướng người điềm đạm thâm trầm:

Người có tính điềm đạm, thâm trầm được thể hiện ra ngoài qua một số đặc điểm sau đây:

- Bất kể Mũi cao hay thấp, miễn là ngay ngắn, phối hợp thích nghi với Lưỡng Quyền.
- Mắt bất kể loại gì miễn là mục quang ẩn tàng, nhưng không mờ tối, ôn hòa nhưng không nhu nhuyễn, Môi hồng và trên dưới cân xứng.
- Thần khí thư thái, thanh thản khiến người sơ kiến cũng có thiện cảm muốn tiếp cận, vui buồn không lộ.
Có những đặc điểm đó là người được trời phú cho tính điềm đạm, tự chế được hỷ nộ, công phu hàm dưỡng cao siêu hơn đồng loại.

 

C. Quan sát cá tính người trên:

1. Tướng người trung hậu:

Nhãn quang ôn hòa nhưng không nhu nhược, diện mạo khả ái, thường ngồi an tĩnh, ngôn ngữ khiêm cung, đối đãi với kẻ dưới có lòng khoan thứ, không hách xằng, hành sự chu toàn, không khinh bần tiện, không trọng sang giàu quý hiển, trong gia đình xử sự có điều lý, gia đạo an lạc. Bất cứ trong trường hợp bất bình với kẻ dưới ra sao cũng đều không ỷ quyền thóa mạ.

2. Tướng người hung ác:

Nói đến hung ác, ta phân biệt đại ác và tiểu ác. Hơn nữa, có khi hung chưa hẳn là ác, có khi vừa ác vừa hung.

Kẻ có hỏa sắc ám tình (mắt đỏ) còn gọi là nhãn đới sát, được coi là nhãn hung, chủ về hung hiểm cho chính bản thân, sắc mặt lúc nào cũng như ngái ngủ gọi là thần hung hay đới sát… Tất cả điều đó chủ về hung chứ không phải ác.

Kẻ có thân thể lệch lạc, mặt có các thớ thịt phát triển theo chiều ngang, mày sắc như dao, mắt như rắn là kẻ tính ác và tham lam đê tiện

Trái lại kẻ có tóc cứng và thô như rễ tre; trán gồ và phá hãm; Mắt lồi và lộ hung quang kiêm nhãn thần vượng; Lưỡng Quyền có lông tơ rõ rệt; Mũi lõm mà Quyền cao; Mắt rắn và hay liếc xéo ánh mắt đảo điên; Mũi chim ưng; Mắt soi; tiếng nói như chó tru; nhìn người hay cười lạnh là tướng người vừa hung vừa ác.

3. Tướng người nhu nhược:

Loại người nhu nhược, biểu hiện ra ngoài qua ánh mắt kinh nghi (bất kể loại mắt nào); chỉ thích nói chuyện nhàn hạ; không dám quyết đoán việc thuộc thẩm quyền của mình; nói năng khinh xuất.

4. Tướng người vô tình bạc nghĩa:

Kẻ có tướng trên thì mang tai nở rộng quá đáng; Mắt nhỏ mà thiếu bề ngang, con ngươi hơi vàng; Môi mỏng như giấy; khi yếu thế hoặc chưa đăc thời thì đối đãi với người thân mật khăng khít, đến lúc đắc thế thì coi thiên hạ như cỏ rác hoặc thấylợi thì quên hết mọi việc lấy oán làm ân.

5. Tướng người bất cận nhân tình:

Đăch điểm dễ thấy là tướng người thô trọc. Quyền thấp Mũi cao, tính thích nịnh hót, dốt mà tự chuyên, nói năng tự tiện, lỗ mãng, hỷ nộ vô thường, đi đứng lao đầu uốn khúc tự cho mình là mạnh mẽ hiên ngang, không biết nhân tình thế cố mà tự cho là thông thái buộc người khác phải hiểu như mình.

6. Tướng người giảo hoạt:

Loại tướng này được biểu hiên ra ngoài qua cặp Mắt  và Mũi. Kẻ có Mũi chim ưng bất kể nghiêng lệch hay không; Mũi cao và Lưỡng Quyền cao thấp ra sao cộng thêm với cặp Mắt không bao giờ nhìn thẳng (luôn luôn liếc xéo, nhìn lên, nhìn xuống). Miệng nói với người mà ánh mắt sáng láng giảo hoạt lại hướng về phía khác hoặc nhìn lên đều là tướng giảo hoạt.

7. Tướng người tinh tế:

Tính tình tịnh minh tế nhị được thể hiện bằng cặp Lông Mày thanh tú, nhỏ bề ngang mà mọc cao; Mắt đẹp và mục quang thuộc loại Đinh nhi xuất (nhãn thần sáng rực, lúc ẩn lúc hiện); tròng đen lòng trắng phân minh và sáng sủa hưu tình, ngông ngữ ôn tồn; giọng nói không nhanh không chậm; cử chỉ ngay thẳng đàng hoàng bề ngoài có vẻ ôn nhu thuận hảo nhưng nội tâm cương trực không bị người chi phối.

8. Tướng người khó có thể bị dối gạt:

Đa số người có óc phân biệt bén nhạy và khó dối gạt đều có Mày cao, Mắt đẹp, thần khí sung mãn, đồng tử sáng sủa; tròng đen, lòng trắng phân minh; âm thanh cao và trong trẻo; ngữ điệu vừa phải thích nghi; toàn thân như tỏa ra một vẻ oai nghiêm khiến người trông thấy pát sinh sợ hãi ngầm không dám đặt điều nói gạt.

Về cá tính kẻ đó không thể lấy tình cảm để đả thông, không để lợi danh làm mờ mắt, gặp việc đáng làm thì trầm ngâm, mặc suy tư cẩn thận, ít ba hoa biện giải; khi cùng người giao tiếp không trọng hình thức; có lỗi thì vạch rõ; có công thì khen thưởng; không tư vị dù cho kẻ đó là người xa lạ hay quen mình cũng vậy.

 

II.ỨNG DỤNG NHÂN TƯỚNG HỌC VÀO VIỆC TIÊN LIỆU VẬN MẠNG

A, PHÁT ĐẠT

1. Các dấu hiệu của sự phát đạt:

Danh từ phát đạt ở đây bao gồm ý nghĩa cuộc đời hanh thông về nhiều mặt trong đời sống xã hội như được người vị nể vì tài năng đức độ, có nhiều tiền của, sự nghiệp thăng tiến…

a, Tướng người phát đạt lúc còn trẻ:

Trong phép đoán vận mạng lúc còn trẻ mà hai tai bị khuyết hãm, tai quá mềm, vành trong vành ngòai đảo lộn có sẹo… đều là dấu hiệu dễ nhận biết của thuở ấu thời lận đận.

Qua kinh nghiệm của người xưa, những người phát đạt từ lúc thiếu niên đều có:

- Hoặc đầu tròn, đỉnh đầu bằng phẳng rộng rãi
- Hoặc trán có Nhật Nguyệt giác và Tiên đình nổi cao, khí thế sáng sủa mạnh mẽ

Có đủ hai yếu tố trên và có thêm các bộ vị khác tốt đẹp hoặc ít ra cũng không khuyết hãm sẽ là các dấu hiệu báo trước người đó sẽ phát đạt trước năm 20 tuổi.

Quá 20 tuổi Thiên Thương nổi cao và đầy đặn, Trán nảy nở tương xứng; Lông Mày thanh tú, đậm nhạt thích nghi với tướng người và phối hợp với các bộ vị khác của khuôn mặt (tướng chính thường) tai cao… đều là dấu hiệu phát đạt, không giàu  thì cũng sang cả.

Nói chung các dấu hiệu về tướng sau đây đều chủ về thiếu niên phát đạt:

- Ấn Đường rộng rãi, cao và không có vết phá
- Tai trắng ngà, dầy và có Thùy châu
- Lông Mày thích nghi xanh tươi
- Thiên Đình cao rộng
- Các góc cạnh trên của trán cao và đẹp, các bộ vị như Phụ giác cũngnảy nở và đều đặn
- Chuần Đầu tròn đầy, lỗ mũi không lộ
- Sống mũi cao thẳng và có khí thế, Thiên Thương đầy và Lông Mày có thần khí.

b, Tướng người phát đạt lúc trung niên:

Trong tướng học về phương diện vận mạng, phát đạt từ khoảng 30 đến 50 tuổi được coi là trung niên phát đạt (hay trung vận).

Từ 30 đến 40 tuổi xem phát đạt căn cứ vào Lông Mày và Mắt. Từ 40 đến 50 tuổi căn cứ vào Mũi và phu vực phụ cận. Nếu Mày, Mắt sáng sủa thanh tú thì dễ phát đạt trong khoảng 30 đến 40. Chuần Đầu đầy đặn, Sống mũi không gãy và trơ xương, Lưỡng Quyền cao và nảy nở cân xứng sẽ phát đạt trong khỏang từ 40 đến 50. Lông Mày tán lọa, không thể có tiền và thế lực lúc trẻ. Pháp Lệnh, Gián Đài, Đình Úy bị phá thì trung niên không thể giữ được tiền bạc. Chỉ có Lưỡng Quyền nổi cao đặc biệt mà toàn thể khuôn mặt thuộc loại hạ đẳng thì trung vận thành bại thất thường không có gì đáng nói.

Về chi tiết từng năm trong khoảng trung niên tham chiếu bảng lưu niên vận hạn sẽ rõ. Tuy vậy phép coi lưu niên bộ vị chỉ cho ta dự đoán khái quát cần phải xét các bộ vị đó trong thế hộ ứng liên hoàn củ khuôn mặt, chứ không thể tách rời từng bộ vị. Sau hết phải luận thêm đến tinh thần và khí phách mới tạm đủ dữ kiện để đạt tới mức chính xác khả quan.

 

c,  Tướng người phát đạt lúc vãn niên:

Từ 50 tuổi trở đi thuộc về vãn niên. Xem một cách tổng quát thì căn cứ vào Hạ đình còn muốn xem tỷ mỉ từng năm thì xem từng bộ vị thuộc phần Hạ đình.

Nói chung loại tướng phát đạt lúc vãn niên có những dấu hiệu sau đây đáng chú ý:

- Miệng vuông vức, Môi đầy đặn cân xứng
- Hổ nhĩ cốt nổi rõ và đẹp
- Tai có Thùy châu và Luân Quách phân minh
- Địa Các đầy và cân xứng, không qua đưa lên cao (tương đối so với trán)
- Râu ria thanh tú có thần khí
Có những dấu hiệu trên mà thấy khí huyết phương cương, sắc thái hồng nhuận là bắt đầu phát .

Thuật ngữ của tướng thuật nói đến tướng phát đạt là người ta nghĩ ngay đến phú và quý, cũng như nói đến phá bại là nghi ngay đến đời sống bần hàn ty tiện… Do đó, đến giúp độc giả hiểu phú và quý cách phải bao gồm những điều kiện gìm thứ bậc ra sao soạn giả thấy cần phải tổng hợp tất cả những điều kiện đó thành từng phú cách và quý cách sau đây:

  • Quý cách:
  1. Đại quý:

Tiếng trong như tiếng khánh, ngân vang như đại hồng chung; Mắt sáng như sao sa; Trán rộng và cao đẹp; Lưỡng Quyền cân xứng và cao (ăn lan tới tận chân tóc mai); Tai có Luân Quách phân minh, tươi nhuận và trắng hơn mặt; phần Nhật và Nguyệt giác cao; Lông Mày thanh tú và dài quá mắt; Mi cốt rõ ràng; Miệng ngậm lại rất nhỏ màhá ra lại lớn; Rốn sâu và hướng xuống. Đi đứng hiên ngang lẫm liệt như rồng cop, khi ngồi thì vững như núi.

  1. Trung quý:

Trán rộng và nở, Mũi như túi mật treo; Miệng hồng như son tàu; Mắt sáng như điện chớp; Lông Mày dài quá mắt; người nhỏ tiếng lớn; thân mình dài hơn chân cử chỉ khác tục.

  1. Tiểu quý:

Trán dựng đứng như bức vách (bích lập); Lông Mày như chổi quét; Cổ dài mà tròn; chân cẳng ngắn mà chắc chắn; Miệng vuông mà ngay ngắn; Ấn Đường rộng rãi; Quyền rộng tóc tươi; ngón tay thon dài; chỉ tay lại ngăn mà rõ, ngồi ổn trọng như núi, đi đứng tự nhiên thanh thản như thuyền xuôi dòng nước.

Về tính nết ôn hòa, không gây hấn, làm việc tuy chậm nhưng nhiệt tâm.

Thường thường tướng người có những nét mường tượng như loài chim là kẻ dễ trở thành quý hiển, kẻ có hình dạng tượng hình của loài thú thường giàu có.

  • Phú cách:
  1. Đại phú:

Hình thể phù hợp với cách cục ngũ hành thực sự, dáng dấp giống như loài mãnh thú, tiếng nói lớn như sấm động bên tai hoặc nói nhỏ thì như tiếng ngọc rơi xuống mâm đồng, khóe Miệng hướng lên, tai có Luân Quách đầy đủ, dầy và có Thùy châu rũ xuống, thần thái an hòa, đứng lên nhẹ nhàng như mây trôi, ngồi xuống vững chãi như núi đá; Thương và Khố lúc nào cũng đầy đặn chắc chắnp; Mũi có uy lực, vừa đầy lại cao thấp thích nghi với toàn thể bộ vị trên khuôn mặt.

  1. Trung phú:

Lưng thẳng và vững như tường thành, eo mông tròn trịa đầy đặn, Miệng vuông như chữ tứ, tiếng nói sang sảng, đi thì vững vàng như thuyền lớn xuôi theo trường giang; Ngũ Quan đoan chính; Lục phủ sung mãn, cân xứng, lòng bàn tay dầy và mềm mại; giữa các ngón tay (khi duỗi ra) không có khe hở.

  1. Tiểu phú:

Trán thẳng, Tai tròn và dầy, Luân Quách phân minh, Mày thanh Mắt sáng, Thương Khố không hãm; Chuần Đầu tròn đầy, tiếng rõ ràng trong trẻo; mu bàn tay và chân đầy đặn và mềm mại.

Phàm xem tướng giàu nghèo, loại người có tướng mường tượng như loài thú mà đắc cách thường là kẻ giàu có hoặc giữ chức vụ, địa vị tạo ra nhiều tiền hay giữ nhiều tiền.

Trên đây là các dấu hiệu bề ngoài cho ta phỏng đoán được những tính cách khả hữu cái nhiên mà thôi, chứ không hẳn là có các tướng hình kể trên là đương nhiên trở thành phú hoặc quý trong thực tế. Bởi vì tướng mạo là một trong nhiều dữ kiện tạo thành thực tế. Hơn nữa tướng do tâm sinh, nếu không cố gắng tu dưỡng tâm tính thì tướng sẽ theo tâm mà biến cải. Tâm tính bao gồm cả tài lẫn trí cùng đức độ mà phát hiện ra dưới muôn hình vạn trạng khó mà tóm tắt thành các nguyên tắc giản lược. Cũng do vậy mà trong việc đoán phú quý ta phải dựa vào tài trí để phỏng đoán kết quả về tài lộc chứ không thể tách rời thành hai lãnh vực ngăn cách tuyệt đối, nhất là loại tiểu và trung quý vì "tiểu phú do cầu". Sách Nhân toàn đại thống phú có câu:

      Trí tuệ thị tài phú chỉ nguyên

      Thành bại tạ ư quyết đoán chi trung

Nghĩa là:

      Trí tuệ là nguồn gốc của sự giàu có

      Thành công hay thất bại là do ở sự quyết đoán đúng hay sai.

Để chứng tỏ rõ rang rằng: không có trí tuệ thì dẫu có may mà giàu có thì cũng khó giữ, chứ tiền của đâu có từ trên trời đổ xuống.

Tham luận về loại tướng người phát đạt:

Thông thường bàn về việc giải đoán tướng mạo, người ta hễ thấy diện mạo khôi ngôi tuấn tú, tiêng nói vang dội, Tam Đình bình ổn, Ngũ Quan cân xứng hoặc Ngũ Nhạc triều củng là vội vã chon ngay đó là  loại tướng người chắc chắn sẽ có thể phát đạt. Thực ra, tuy các điều kiện trên là các dấu hiệu hàm ngụ sự phát đạt, nhưng trong đời sống thực tế không thiếu kẻ hội đủ các dấu hiệu trên mà không khá giả, hoặc có phát đạt một thời nhưng không được hưởng phúc đến già hoặc nửa đời vinh hoa cực điểm nhưng rốt cuộc nhà tan thân diệt. Sở dĩ có những hiện tượng đó là vì theo lý luận của tướng học, hoặc do Ngũ hành sinh khắc (trong cái tốt đã hàm chứa cái xấu) hoặc do tâm tính kiêu sa, độc hại không biết giữ gìn để rồi mình làm hại mình trước khi bị người ta làm hại (phần tâm tướng không đi đôi với hình tướng).

Ngược lại Ngũ Quan, Ngũ Nhạc không nẩy nở, Mũi không đẫy đà, thoáng trông không có gì là tướng phát đạt theo định nghĩa thong thường mà vẫn được hưởng phúc lúc trung niên hay tuổi già. Hiện tượng này trong thực tế cũng không hiếm. Đứng về mặt tướng học chuyên môn, loại tướng người có vẻ không phát đạt mà lại phát đạt, chính là những kẻ có tướng phát đạt đặc biệt, tỷ như các loại tướng ngũ lộ, ngũ tiểu, ngũ hợp, bát tiểu, cầm thú tướng, nếu các điều kiện hình thức lẫn nội dung của các loại tướng (vốn bị coi là tiện tướng theo nhãn quang thường tục) kể trên phải đồng thời kiêm bị.

Ví dụ về tướng ngũ lộ. Tướng ngũ lộ là:
- Mắt lồi (vốn là tướng chết yểu)
- Tai phản (Luân Quách đảo ngược vốn là tướng người ngu độn)
- Lỗ mũi hếch lên (tướng của người chết thảm)
- Môi cong lên (tướng của người chết thảm)
- Lộ hầu (tướng của người chết thảm)

Thoáng nhìn qua tướng người như vậy kẻ học tướng thông thường thường vội và cho là ác tướng, nếu không kết luận là tướng yểu thọ, bần hàn thì cũng không dám nghĩ đó là tướng người phát đạt, một cá nhân nếu đủ cả ngũ lộ thì lại thường là kẻ phúc thọ song toàn. Tướng "ngũ lộ câu toàn" tuy thường là tướng phát đặc biệt, nhưng không phải hầu hết là phát đạt vì chữ câu toàn chỉ mới là hình thức chứ không đủ thực chất đi kèm. Ví dụ như ngũ lộ mà:

- Mắt lộ nhưng không có thần quang
- Tai lộ mà không có vành tai ngoài hoàn mỹ
- Mũi lộ mà Chuần Đầu trơ xương hoặc quặp xuống như mỏ chim ưng.
- Môi hêch mà răng sún hoặc khểnh.
- Lộ nhưng âm thanh rè và nhỏ.

thì đó là tướng thô trọc, chủ về khốn quẫn chết non, chỉ vì đắc cách mà chỉ có hình thức không có phần thực chất nên không phải là tướng phát đạt.

Tướng pháp có câu: nhất lộ, nhị lộ thì quẫn bách, bần yểu, Nhũ lộ thì phát đạt, câu nói đó chỉ có tính cách tương đối. Ngũ lộ câu toàn có phát đạt hay không còn tùy thuộc vào một số điều kiện như đã nói trên. Còn nhất lộ, nhị lộ thì quẫn bách, bần yểu cũng không phải là điều đương nhiên phải thế. Vì cũng như ngũ lộ câu toàn, nhất lộ, nhị lộ nhiều khi là tướngcủa kẻ bần cùng nhưng đôi khi cũng là tướng của người phát đạt. Nếu mắt lộ mà có chân quang thu tàng thì nếu các bộ vị khác khuyết hãm thì đến ngoài 40 tuổi sẽ có cơ khá giả. Mũi lộ mà khí sắc lúc nào cũng hồng nhuận, cánh mũi đầy và lỗ mũi mà không hếch lên thì tuy thiếu thời có bị khốn khổ nhưng vãn niên ắt phát đạt….

Ngoài tướng ngũ lộ được coi là phát đạt (nếu hội đủ cả về hình lẫn chất) còn có các tướng ngũ tiểu, bát tiểu, ngũ hợp, tướng cầm thú.. cũng đều là tướng phát đạt đặc biệt với điều kiện là hình và chất đi đôi với nhau.

 

B. PHÁ BẠI:

1. Các dấu hiệu của sự phá bại:

Chữ phá bại dung ở đây có nghĩa rộng rãi bao gồm:

- Số kiếp long đong vất vả về một hay nhiều lĩnh vực của đời người, không bao giờ có thể khá giả, công danh, sinh kế trì trệ

- Tâm tính thấp hèn ngu muội quá mức bình thường

- Kết quả cuộc đời bi thảm: chết trong cô đơn, chết bất đắc kỳ tử, chết thảm đói rách, bị khinh rẻ…

Đứng về mặt hình tướng, tướng người phá bại được nhận ra nhờ các dấu hiệu bề ngoài sau đây:

- Trán nhỏ, nhọn, hẹp, chủ về hình khắc, công danh trắc trở, thuở thiếu niên gặp nhiều tai họa

- Lông Mày mọc thấp lan xuống gần bờ mắt chủ về khốn cùng. Lông Mày thưa thớt chủ về vất vả, nhọc nhằn trong cuộc sống, đứt đoạn chủ về công việc thành bại thất thường, ngắn cụt chủ về nghèo hèn…

- Mắt vừa ngắn vừa nhỏ chủ về tâm địa nhỏ mọn, nếu them mặt mập núng nính như mặt heo thì sẽ chết không toàn thây.

- Mắt lớn lồi ra và hời hợt, chủ về chết non, lộ và có hung quang chủ về chết thảm, đồng tử vàng và lờ đờ thất thần chủ về khắc thê và hay bị hình phạm.

- Mũi hếch và lộ chủ về phá tán, cùng khốn, thấp hoặc có gân có vạch chủ về công ăn việc làm lên xuống thất thường; Chuần Đầu quá cao so với khuôn mặt và nhất là so với Lưỡng Quyền thì chủ về cô đơn hay phá bại, quá lớn và mỏng gọi là không phù hoặc nghiêng lệch đều chủ về cô đơn trì trệ.

- Miệng nhỏ Môi mỏng chủ về nghèo hèn, rộng mà lệch lớn mà thường há hoác ra không khép kín lại đều chủ về cô đơn, nghèo hèn. Môi túm lại và nhô cao lên, khóe Miệng trễ xuống, Pháp lện ăn vào khóe Miệng đều có ý nghĩa tương tự.

Riêng Pháp Lệnh ăn vào khóe Miệng gọi là  "đằng xà nhập khẩu" dù có các bộ vị khác có tốt chung cuộc cũng chết đói hoặc chết đường chết chợ.

- Tai không có Luân Quách rõ rang minh bạch chủ về cùng khốn, mỏng nhọn chủ về nghèo túng, đen đủi, thấp lệch chủ về hèn mọn chết non.

Đại để kẻ mà Ngũ Quan đều vấp phải một trong khuyết điểm của từng quan kể trên khả dĩ đủ để xếp vào loại tướng phá bại.

Ngòai tướng phá bại vì Ngũ Quan khuyết hãm kể trên còn có một số hình cách đặc biệt sau đây cũng bị xếp vào loại tướng phá bại:

a, Lục cực: kẻ có sáu dáng dấp cực đoan sau đây:

- Đầu lớn nhưng cổ nhỏ: chủ về bần tiện, yểu vong. Riêng đàn bà đầu lớn cổ nhỏ vai ngang là số góa bụa, làm bé.

- Mặt lớn đầu nhỏ: chủ về nghèo và tính nết độc ác.

- Thân thể phì nộn, cao lớn mà tiêng nói quá nhỏ, không có âm lượng chủ về vãn niên nghèo khổ, chết nhờ tay người ngoài táng .

- Ức nổi cao mà bụng dưới lại quá hõm: chủ về hậu vận không ra gì

- Vai lưng qua trơ xương so với toàn thể các phần khác của thân thể: chủ về nghèo hèn không có con cái

- Chân cẳng khẳng khiu không tương xứng với thân mình

b,  Lục tiện: xét về mặt tâm tướng, vô luận hình hài ra sao, nếu phạm vào một trong các khuyết điểm sau đây về đức hạn cũng thuộc về tướng phá bại:

- Không biết liêm sỉ giữ gìn đạo lý

- Thường tự khoe mình (tự cao tự đại)

- Thích châm chọc khuyết điểm của người khác.

- Không có gì đáng cười mà lại cười như kẻ phát khùng

- Không biết lẽ tiến thoái trong khi làm việc hay giao thiệp

- Lúc ăn hay nói chuyện luyên thuyên trên trời dưới đất

(đây phải là cố tật bẩm sinh mới kể, còn như với dụng tâm làm sai lạc nhận định của người chung quanh thì không kể)

c, Lục hại:

- Lông Mày thô, mọc thẳng đứng, không xuôi theo chiều từ đầu đến đuôi mắt chủ về bị hình phạm

- Ngay giữa Sơn Căn có một lằn sâu chạy xuyên qua Ấn Đường lên tới giữa trán.; sống mũi cao gầy trơ xương: chủ về khổ sở tai nạn

- Tròng mắt lồi cao rất rõ chủ về hình khắc

- Sống mũi có xương phát triển về bề ngang, và nổi cao lên chủ về trung niên phá tán, long đong vất vả.

- Răng vẩu và khấp khểnh, lồi ra khỏi Miệng chủ về bực dọc lo lắng uất ức suốt đời.

- Xương lộ thịt xệ chủ về tai nạn hung hiểm và có số cơ hàn.

d, Lục ác:

- Đầu quá nhỏ bần tiện ngu độn

- Mắt dê: chết thảm hoặc đoản mệnh

- Môi túm cong lên, răng lởm chởm: nghèo túng

- Yết hầu lộ: khắc vợ muộn co, hay gặp tai vạ.

- Tam Đình bất quân xứng, Hạ đình đặc biệt dài và nhọn chủ về nghèo khổ cô đơn lúc tuổi già

- Đi thân hình lắc lư như rắn bò, bước chân nhún nhảy như chim chìa vôi: long đong khốn quẫn

e, Thập sát:

Theo Phong Vân Tử

- Mặt lúc nào cũng ngơ ngác như kẻ si ngốc

- Thần khí hôn ám thô bỉ

- Lòng trắng mắt pha hồng vì thiên bẩm

- Lỗ mũi hếch, sống mũi qua thấp gần nhe vào mặt phẳng của khuôn mặt

- Vô bệnh tật mà có thói quen bẩm sinh hay khạc nhổ dường như trong Miệng lúc nào cũng có đờm.

- Chỉ có râu Cằm mà Môi trên không có ria

- Lúc ăn uống thường đổ mồ hôi dù rằng thân thể không bị bệnh.

- Tự nói cười với chính mình mà không cần người đối thoại.

- Thanh âm khan lạnh giống như tiêng chó tru.

- Bị bệnh hôi nách.

(Bất kể phạm vào một trong điều của thập sát thì cuộc đời cũng gặp hung hiểm bất trắc (hoặc về gia đạo, bạn bè công danh sự nghiệp…) càng gặp nhiều mức độ hung hiểm càng gia tăng, càng dễ đoán)

Nghiễn Nông cư sĩ:

- Dáng đi chậm chạp như người say

- Mũi gấp khúc

- Da mặt khô, đen đúa

- Mắt sần sùi như quả lâu

- Lông Mày quá đậm

- Tiếng lan hlảnh như chó sói tru 

- Giọng nói the thé

- Gian môn lõm và hõm

- Miệng quá rộng

- Mắt quá lớn

 

C. THỌ YỂU

1. Tướng người trường thọ phải hội đủ tối thiểu bảy điều kiện sau đây:

- Lông Mày phối hợp thích nghi với râu và tóc, càng về già càng dài lại là dấu hiệu tốt. Tuy nhiên dưới 30 tuổi mà long mày dài ra một cách bất thường lại là chứng yểu mạng

- Tai có Luân Quách rõ rang, lớn và dầy, rắn chắc, sắc tươi nhuận.

- Sống mũi phần Niên Thượng và Thọ Thượng dầy và có thịt

- Nhân Trung sâu và rộng

- Răng chắc chắn

- Tiếng nói rõ rang vang dội

- Thần khí sung túc

Ngoài ra, những dấu hiệu sau đây cũng liên quan khá mật thiết tới việc giải đoán thọ mạng:

- Cổ phía dưới có thêm lớp da trễ xuống vai (với người đứng tuổi và mập)

- Nếu là lộ hầu thì âm thanh phải trong trẻo và cao

- Xương Lưỡng Quyền vững vàng và ăn thông lên ngang phía tai.

- Xương hai bên đầu phía trên và sau tai nổi cao rõ rệt

- Ngũ Nhạc đầy đặn và đúng cách cục

- Đến tuổi trung niên (ngoài 30) tai mọc lông dài hoặc lông mày bắt đầu mọc dài và sắc thái tươi nhuận.

- Lưng rộng, bụng dầy

Người có đầy đủ tất cả các điều kiện trên chắc chắn là tướng trường thọ trong trường hợp bình thường.

2. Tướng người non yểu:

Một cá nhân bị xem là tướng non yểu nếu đồng thơi phạm vào bảy khuyết điểm sau đây:

- Lông Mày đẹp về hình thức nhưng hỏng về thực chất (chẳng hạn sợi thô vàng, sắc khô héo); Lông Mày mọc sệ xuống phía dưới mi cốt, dáng vẻ lạnh lẽo.

- Tai nhỏ úp xuống phía trước mặt; tai quá mềm, sắc khô xạm, tai quá mỏng, nhĩ căn bạc nhược.

- Mũi gẫy khúc, Sơn Căn gập xuống; Chuần Đầu nhỏ nhọn khiến mũi trở thành liệt thế.

- Đầu nhỏ, cổ dài trán nhỏ nhọn và nổi gân xanh, thiếu niên mà đi hoặc ngồi co đầu rụt cổ.

- Nhân Trung ngắn nông cạn

- Tiếng nói đứt đoạn, giọng nói gấp mà hời hợt như người thiếu hơi, âm điệu buồn tẻ như người không có sinh khí.

-  Ánh mắt đờ đẫn như kẻ si ngốc hoặc như người ngái ngủ, ngồi thì lưng như gẫy gục, đứng thì chân như không có gân cốt, đi thì thân hình xiêu vẹo, bước chân thiếu vững vàng.

Tất cả những dạng thức trên đều là biểu hiện của "Thần suy nhược, hôn ám đoản xúc" nên không thể nào sống quá 50 tuổi. Bởi vì lẽ đó, có người tuy về hình tướng rất đẹp đẽ phương phi mà chết yểu chỉ vì khí chất không quân xứng.

a, Chết yểu trong vòng 10 tuổi trở lại:

Phàm tướng người non yểu trong tuổi trên được thể hiện qua đầu và trán nhỏ quá mức so với thân mình, trán nổi gân xanh quá rõ rệt, phía sau đầu xương bị lõm xuống.

b, Chết yểu trong vòng 20 tuổi trở lại:

Tác người lớn con mà đầu lại nhỏ bé cộng them với tiếng nói quá nhỏ là tướng khó sống qua năm 15 tuổi. Tai mỏng như giấy, Nhĩ căn bạc nhược, da mỏng va bóng như bôi dầu khó vượt qua quãng 16, 19 tuổi. Mắt lồi mà tròng đen ít, long trắng nhiều, Nhĩ căn đen xạm, Tai mỏng và hướng về phía trước khó sống qua được 20 tuổi.

c, Chết yểu trong vòng 30 tuổi trở lại:

Lông Mày ngắn, mặt ngắn, không thọ quá 25 tuổi. mày thưa thớt, xâm phá Ấn Đường, mắt không có thần, Môi xám đều là tướng đoản thọ trong vòng 26 tuổi. Mắt nhỏ, Quyền thấp, xương thô, thịt teo mà Hạ đình quá dài nhọn; không cân xứng.

d, Tướng vong mạng trong vòng 40 tuổi trở lại:

Mắt lớn mà lộ hầu, xương nhỏ mà người mập: không quá 36 tuổi; mắt lộ hung quang hừng hực, tínhtình thô bạo thì dẫu Mũi cao, Sơn Căn không gẫy khúc thì cũng chỉ đến năm 39 tuổi khó tránh được số trời.

e,  Tướng vong mạng trong vòng 50 tuổi trở lại:

Sông Mũi không ngay ngắn (có chiều hướng lệch sang bên trái hoặc bên phải) ít khi sống quá 42 tuổi; Mắt nhỏ, mày co rút lại không tương xứng với khuôn mặt Sơn Căn lại đầy đặn thường sống đến khỏang 42, 44 tuổi. Bắt đầu phát phì mà thần khí lại có vẻ co rút thì khó qua được tuổi 49 và 50.

d, Đoán tướng tiểu nhi:

Con nít vì cơ thể chưa phát triển đầy đủ nên không thể căn cứ vào Ngũ hành, Lục phủ để định tốt xấu như người đã thành niên. Việc coi tướng trẻ em chủ yếu phụ thuộc vào thần khí, cử chỉ nên chỉ có tính cách phònh chừng.

1. Tướng trẻ sơ sinh dễ nuôi:

Hầu hết trẻ em dễ nuôi và sống đến tuổi thành niên, trong hoàn cảnh bình thường đều có bảy nét tướng chính yếu sau đây:

- Mới sinh ra tóc dài tới sát long mày

- Đầu tròn trịa, da hồng hoặc ngăm đen

- Lỗ mũi khi thở phát ra hơi đều và mạnh lúc ngủ Miệng ngậm

- Mắt có thần khí, cất tiêng khóc lúc đầu giọng cao, tiếng lớn có âm lượng.

- Con trai, hai trứng dái đàn hồi và có nhiều nếp xếp

- Tai và Miệng lớn

- Mũi cao, Môi hồng dầy và cân xứng

2. Tướng trẻ sơ sinh khó nuôi:

- Da đầu trông có vẻ quá mỏng và căng

- Lông Mày quá lớn so với đầu và Mũi quá thấp dường như chỉ thấy Chuần Đầu

- Mắt không đen bong như hạt huyền mà lịa có màu nhạt như đậu đỏ.

- Khuôn mắt tròn như mắt gà

- Tai nhỏ và mềm như bún

- Không có bắp chân

- Khi cất tiếng khóc mới đầu rất lớn sau nhỏ dần

- Thịt nhiều bệu, xương quá ít

- Môi mỏng như giấy và phía sau tai không có Nhĩ căn nổi rõ

- Đầu lớn, cổ quá nhỏ

- Hai mắt lờ đờ không có thần

- Đầu nhỏ nhọn

- Bụng lớn, rốn nhỏ

- Tóc vàng khè và thưa ngắn

- Chưa tới sáu tháng mà đã sớm mọc răng trong khi Lông Mày hầu như không có.

 

Sự dễ nuôi và có khẳ năng sống đến tuổi thanh niên hay khó nuôi hoặc yểu tử còn có thể căn cứ vào xương đầu để đoán định. Trong phần xương đầu của tiểu nhi ta cần đặc biệt lưu ý mấy khu vực sau đây:

- Xương chẩm (phía sau đầu, trên xương gáy)

- Sơn Căn

- Tỵ Lương (sống mũi)

Xương chẩm nổi rõ và rộng, Sơn Căn có bề ngang và cao hơn mặt phẳng của Lưỡng Quyền, Sông mũi ngay ngắn và không lệch là các dấu hiệu bề ngoài về mặt hình thể cho biết đó là cát tướng. Ngược lại là yểu tướng.

3. Tướng tiểu nhi phúc hậu

Từ khi biết đi đến 5 tuổi muốn biết phúc phận trẻ em dầy mỏng ra sao thì coi thần khí. Thần khí nói ở đây bao gồm tọa thần, ngọa thần và mục thần nghĩa là ánh mắt hòa ái, nói năng thong thả trong trẻo, đi đứng nằm ngồi có vẻ nhàn hạ, là tướng phúc hậu. Sau 6 tuổi coi them Nam, Trung, Bắc Nhạc. Nam Nhạc cao rộng đúng cách chủ về sơ vận phúc lộc tốt. trung Nhạc đắc thế thì trung vận khá giả. Bắc Nhạc đầy đặn cân xứng thì vãn vận hưởng phúc. Tóm lại cuộc đời trẻ em có thể biết trước được một cách khái quát ngay từ khi chúng còn thơ ấu.

4. Tướng tiểu nhi tương lai nghèo hèn:

Lúc còn nằm trong nôi mà tiếng khóc không trong trẻo chủ về lớn lên vừa nghèo vừa khổ vừa khó nên người, tiêng khóc mà âm thanh tản mát lớn lên thì vô tài bất tướng. Thần khí bất túc, biết đi quá sơm cũng một ý nghĩa như trên.

Từ 3, 4 tuổi trở lên không thích quần áo sang trọng, không phân biệt sạch bẩn Nam Trung Bắc Nhạc lệch và hãm … đều là dấu hiệu báo trước rằng khi lớn lên khó có thể khá giả.

5. Tướng tiểu nhi trọng bệnh:

Góc trán có sắc xanh xám, hai mắt thất thần. Thiên Thương và Ấn Đường sắc đỏ, Môi, Miệng xám đen. Khi thấy có những màu sắc trên bắt đầu xuất hiện là phải đề phòng trọng bệnh.

Khi bị bệnh nặng mà thấy Sơn Căn, Tỵ Lương, Môi, Miệng đều xám xanh một lúc là dấu hiệu sẽ chết trong vòng năm bảy ngày tới. Các bộ vị trên đều từ xám xanh chuyển sang vàng nghệ thì khoảng ba bốn ngày khó tránh khỏi tuyệt mạng. Nếu mắt lộ phù quang: Gián Đài, Đình Úy khô cằn, Chuần Đầu đen, Môi, Miệng vàng là dấu hiệu sắp chết nội trong ngày.

Ngược lại nếu bệnh nặng mà màu đỏ của Ấn Đường biến đổi dần sang màu vàng, Môi Miệng từ đen xạm chuyển sang màu hồng là dấu hiệu nội tại cho biết bệnh đang thuyên giảm, sinh mạng không có gì nguy hiểm.

6. Tướng trẻ em trai khắc cha:

- Phía trán bên trái thấp, lõm hoặc bị tật bệnh bẩm sinh hoặc khu vực trán trái có nhiều lông tơ nhỏ và rậm đen khác thường.

- Lông Mày trái bất thường tỷ như nửa phần rủ xuống, nửa phần hướng lên, sợi lông thô, mọc dựng đứng.

- Thân mũi lệch về bên trái hoặc một trong các bộ vị bên trái của Mũi bị khuyết hãm.

- Quyền trái lộ

- Tai trái thấp hơn tai phải hoặc hình thái có Luân Quách đảo ngược.

- Nhân Trung lệch về bên trái.

- Khóe Miệng lệch về trái. Môi trên dài hơn, Môi dưới quá đáng.

Có từ hai dấu hiệu trên trở lên có thể coi như tướng khắc cha, càng nhiều hơn thì sự khắc phá càng nặng. Nếu có đủ tất cả có thể quả quyết là cha sẽ chết trước mẹ, hoặc người cha sẽ khốn khổ vì đứa con đó.

7. Tướng trẻ em trai khắc mẹ:

- Nguyệt giác thấp, lệch, lẹm có long máng qua đậm

- Lông Mày phải có lông mọc ngược hoặc thẳng đứng lên, trái lẽ thường trong khi phía trái bình thường.

- Sông mũi lệch về phía phải, các bộ vị phía phải của mũi có hình dạng bất thường

- Quyền phải lệch, lộ, nhọn

- Tai phải thấp, nhọn, khuyết

- Nhân Trung lệch về phải

- Môi dưới dài hơn Môi trên hoặc khóe Miệng phải lệch

Nói chung, khuôn mặt bên phải chủ về mẹ. Nếu các bộ vị bên trái bình thường mà ít nhất hai hay nhiều bộ vị bên phải có các dấu hiệu trên thì có thể tiên đoán được đứa trẻ đó khắc mẹ. Nhẹ thì mẹ con bất hòa, tính tình xung khắc, nặng thì có thể vì sinh đứa con đó mà mẹ chết trước bố.

Bạn có thể dùng phím mũi tên để lùi/sang chương. Nhấn vào giữa màn hình để hiển thị Tùy chọn đọc.
Theo dõi Đọc Sách Hay trên Facebook, mỗi ngày chúng tôi cập nhật những cuốn sách, truyện hay nhất!
Nhân Tướng Học Chương 5: Ứng Dụng Nhân Tướng Học

Có thể bạn thích